Một số lễ hội

Thứ năm - 07/12/2023 21:46

LỄ HỘI DINH THẦY THÍM

Dinh Thầy Thím tọa lạc giữa khu rừng dầu Bàu Cái, thuộc thôn Tam Tân, xã Tân Tiến, thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận. Sự tích Thầy Thím được lưu truyền trong dân gian, là 2 vợ chồng đạo sĩ tài đức, giàu lòng nhân ái, có nhiều công lao cứu giúp người dân nghèo trong cuộc sống. Sau khi họ qua đời, nhân dân địa phương không biết họ tên nên kính cẩn gọi là Thầy và Thím. Để ghi tạc công ơn của họ, nhân dân địa phương đã lập dinh thờ Thầy Thím tại khu rừng Bàu Cái.

Quần thể di tích dinh Thầy Thím tọa lạc ở hai khu vực: Khu dinh thờ Thầy Thím tại rừng Bàu Cái và khu mộ Thầy Thím ở rừng Bàu Thông. Khu mộ cách dinh thờ khoảng 3km về phía Tây gồm có: Mộ Thầy, Thím, mộ đôi bạch hổ và Điện thờ Thầy Thím.

 

C:\Users\SPRING\Desktop\ảnh vhtt\dinhthay.jpg

C:\Users\SPRING\Desktop\ảnh vhtt\images1336097_1.jpg

 

Dinh Thầy Thím thuở ban đầu được tạo dựng bằng tranh lá đơn sơ, sau được người dân địa phương đóng góp công sức để tôn tạo lại khang trang và bề thế. Căn cứ vào truyền thuyết và những dòng văn tự Hán - Nôm cổ chạm khắc trên thanh xà cò ở Chính điện “Kỷ Mão niên thập nhị nguyệt nhị thập ngũ nhật cấu tạo”, có thể xác định niên đại tôn tạo dinh vào ngày 25/12/1879 (năm Tự Đức thứ 32).

Hàng năm, tại dinh Thầy Thím tổ chức hai kỳ lễ: Lễ Tảo mộ Thầy Thím diễn ra vào ngày 05 tháng Giêng và Lễ giỗ Thầy Thím diễn ra từ ngày 14 - 16 tháng Chín Âm lịch. Lễ giỗ được coi là Lễ hội chính với nhiều nghi lễ truyền thống.

Trước lễ hội, Ban Quản lý di tích họp bàn thống nhất kế hoạch, chương trình, huy động nguồn lực đóng góp của các tổ chức, cá nhân để phục vụ Lễ hội và bầu chọn ra Ban Tế tự để thực hiện các nghi lễ trong Lễ hội. Người dân trong làng cùng tập trung về dinh và mộ Thầy Thím để quét dọn trong ngoài, lau chùi, sửa soạn các khám thờ, đồ tế tự sạch sẽ, tươm tất và mua sắm những loại lễ vật cần thiết theo tập tục truyền thống. Bên trong khuôn viên dinh và mộ trang trí các loại cờ lễ (cờ đại, cờ trung và cờ tiểu).

Các nghi lễ trong Lễ hội đều do Ban Tế tự của dinh thực hiện. Theo truyền thống, Ban Tế tự là những người do dân làng chọn ra, có uy tín, đạo đức, gia đình hòa thuận, gương mẫu, không có tang chế, am hiểu về tập tục và các lễ nghi liên quan đến tín ngưỡng dân gian truyền thống của cộng đồng.

Lễ vật dâng cúng Thầy Thím, ông bà, tổ tiên trong Lễ hội dinh Thầy Thím gồm những sản vật gắn với sản xuất nông nghiệp của người dân địa phương, trong đó phải có 01 con heo toàn sắc để dâng tế Thần linh. Trước năm 1975, con heo này phải đặt trước cho 01 gia đình có cuộc sống hòa thuận, uy tín với dân làng, không vướng tang chế… chăn nuôi từ nhỏ hết sức cẩn trọng. Tuy nhiên, sau năm 1975 đến nay, tập tục này không còn, trước khi Lễ hội diễn ra khoảng 01 - 02 tháng, Ban Quản lý dinh Thầy Thím mới tiến hành liên hệ, tìm kiếm, lựa chọn con heo toàn sắc đảm bảo tiêu chuẩn theo quy định để dâng tế Thần linh.

Lễ hội dinh Thầy Thím diễn ra với nhiều nghi lễ như: Nghinh Thần, Nhập điện an vị; Dâng cộ bánh lên Thầy Thím, Cúng Ngọ; Thỉnh sanh, Tế Tiền hiền và Chánh tế Thần.

Sáng ngày 14 tổ chức Nghi lễ Nghinh Thần. Ban Tế tự tổ chức Đoàn lễ trong lễ phục truyền thống xuất phát từ dinh đến mộ Thầy Thím để thực hiện nghi lễ Nghinh Thần (Thầy Thím) về dinh an vị, hưởng lễ. Đoàn lễ gồm xe hoa, cờ lễ, cờ hội, bát bửu, kiệu sắc phong, kiệu Bằng xếp hạng di tích, kiệu lễ 6 đầu rồng (trên kiệu bài trí ngai nghinh, bình hoa, quả tử, chân đèn, bát nhang), tàn, lọng, trống, chiêng, nhạc lễ, Ban Tế tự, lân sư rồng, nhân dân và du khách tham gia trẩy hội.

Khi đến mộ Thầy Thím, Đoàn lễ thỉnh sắc phong, Bằng xếp hạng di tích, kiệu lễ (đặt ngai nghinh, bát nhang, hoa quả, chân đèn) vào trước sân Điện thờ. Sau đó, Ban Tế tự thỉnh bát nhang nhập điện để thực hiện nghi lễ khấn báo, thỉnh mời Thầy Thím về dinh hưởng lễ. Thực hiện xong nghi lễ Nghinh Thần tại Điện thờ chính, Ban Tế tự thỉnh bát nhang đặt lên kiệu lễ 6 đầu rồng để thỉnh Thầy Thím về dinh an vị, hưởng lễ. Trên đường nghinh rước Thầy Thím về dinh, chiêng, trống, nhạc lễ và đội lân sư rồng liên tục hòa âm và diễn xướng tạo không khí trang nghiêm, nhộn nhịp.

Rước Thầy Thím về đến dinh, Ban Tế tự thực hiện Nghi lễ Nhập điện an vị. Ban Tế tự thỉnh sắc phong, bằng xếp hạng di tích, bát nhang vào Chính điện; vị Chánh bái hai tay kính cẩn bưng bát nhang khấn vái trước khám thờ Thần 03 lần rồi an vị bát nhang lên khám thờ Thầy Thím. Trên khám thờ Thầy Thím bài trí sẵn hoa quả, trầu cau, trà nước, hương đèn, chè xôi. Nghi lễ Nhập điện an vị diễn ra nhanh gọn với 03 hồi chiêng, 03 hồi chung cổ, 03 hồi trống và nhạc lễ hòa âm rộn rã, tiếp đó vị Chánh bái cầm 03 nén hương khấn vái trước khám thờ Thần mời Thầy Thím an vị, hưởng lễ.

Trước lễ hội, để thể hiện sự biết ơn, kính trọng của người dân địa phương đối với Thầy Thím, Ban Tổ chức phát động Hội thi làm cộ bánh để dâng lên Thầy Thím. Dinh Thầy Thím do Hội Tam Quý của địa phương quản lý, Hội có 07 chi hội trực thuộc, đến kỳ Lễ hội mỗi chi hội phải làm 01 cộ bánh dâng lên Thầy Thím. Các cộ bánh có dạng hình tháp 07 tầng, cao từ 1,7m - 1,8m, trang trí đèn, hoa trang trọng thể hiện tính sáng tạo, khéo léo của các nghệ nhân.

Sáng ngày 15 là Nghi lễ Dâng cộ bánh lên Thầy Thím. 07 cộ bánh của 07 chi hội được đặt trang trọng ở gian giữa nhà Võ ca trước Chính điện. Sau 03 hồi chuông mở đầu, ông Chánh bái cầm 03 nén hương khấn báo, xin phép dâng các cộ bánh lên Thầy Thím. Sau đó, các cộ bánh được phát cho người dân và du khách như là lộc của Thầy Thím.

Tiếp theo là Nghi lễ Cúng Ngọ với lễ vật chay tại gian thờ Tiền Hiền và Chính điện.

Sáng ngày 16 là Nghi lễ Thỉnh sanh diễn ra tại Chính điện. Tuy nhiên, do không gian Chính điện hẹp nên Ban Tế tự thực hiện nghi lễ này tại nhà Võ ca (nối tiếp Chính điện về phía trước). Lễ vật chính trong nghi lễ này là 01 con heo đực toàn sắc, toàn sinh (còn sống) để tế thần.

Heo lễ đặt trên một chiếc giá gỗ ngay trước khám thờ chính nhà Võ ca. Việc hiến tế con heo toàn sắc còn sống trong nghi lễ Thỉnh sanh được xem như một sự tạ ơn của cộng đồng đối với Thần linh, cầu mong Thần linh bảo bọc, chở che và ban cho dân chúng những điều may mắn.

Phía trước cửa chính nhà Võ ca bày 01 bàn lễ vật để Chánh tế thực hiện nghi lễ. Ban Tế tự làm nghi thức dâng hương bên gian thờ Tiền hiền trước để khấn xin ông bà, tổ tiên cho phép dân làng được thực hiện nghi lễ Thỉnh sanh; sau đó di chuyển qua nhà Võ ca và Chính điện, nghi lễ Thỉnh sanh diễn ra nghiêm theo lệnh của vị Xướng lễ. Sau lễ tế, bổn hội, bổn vạn, bổn xã, viên quan, hương chức, người dân và du khách chứng kiến nghi lễ cùng vào dâng hương, khấn niệm, bái lạy trước các khám thờ.

Cùng lúc này, Ban Tế tự cho đưa con heo vào sân phía trước Chính điện. Vị Chánh bái tiến đến nơi con heo đang nằm yên trên giá đỡ, tay cầm 03 nén hương khấn xin phép Thầy Thím cho dân làng giết heo tế thần, lấy con dao (đặt trên bàn lễ trước nhà Võ ca) làm động tác cắt cổ heo tượng trưng. Sau đó, con heo được đưa ra phía sau để thịt. Ban Tế tự lấy 01 chén huyết pha rượu và cạo một chùm lông heo bỏ vào để làm nghi thức Ế mao huyết, dâng lên Thầy Thím, mong Thầy Thím chứng giám và tống khứ những điều dơ bẩn, xấu xa, rủi ro ra khỏi xóm làng. Heo sau khi làm lông sạch sẽ để nguyên con nằm úp, đưa vào đặt lên bàn, đầu quay về khám thờ chính trong nhà Võ ca để dâng tế Thầy Thím.

Tiếp theo là Nghi lễ Tế Tiền hiền để dâng tế các phẩm vật lên các vị Tiền hiền, Hậu hiền và ông bà, tổ tiên; thể hiện tấm lòng sùng kính và sự biết ơn đến công lao của các các bậc tiền nhân đã có công khai phá, tạo lập làng, dựng dinh và xây dựng cuộc sống trên vùng đất mới. Qua đó, cầu mong họ bảo bọc và phù hộ cho dân làng gặp nhiều may mắn, làm ăn phát đạt và cuộc sống ấm no.

Buổi trưa, Nghi lễ Chánh tế Thần diễn ra tại Chính điện và nhà Võ ca. Ngoài các lễ vật khác, con heo sống và chén ế mao huyết trong nghi lễ Thỉnh sanh vẫn được giữ lại. Sau khi Ban Tế tự thực hiện nghi lễ Chánh tế Thần, heo mới được đưa ra ngoài để xẻ thịt và chế biến các món ăn tiếp đãi quan khách và dân làng.

Bên cạnh các lễ thức trang nghiêm, cộng đồng còn tổ chức nhiểu trò chơi, trò diễn dân gian và hoạt động văn hóa - thể thao hấp dẫn như: Thi đấu cờ người, thi làm bánh, đan lưới, khiêng thúng ra khơi, gánh cá, kéo co, việt dã, bóng chuyền bãi biển, biểu diễn lân - sư - rồng, triển lãm mô hình sự tích Thầy Thím, trình diễn trống hội, chương trình nghệ thuật dân tộc...

Lễ hội dinh Thầy Thím ra đời và tồn tại gắn liền với quá trình hình thành vùng đất và con người nơi đây. Lễ hội là dịp để người dân tưởng nhớ và thể hiện lòng biết ơn của cộng đồng đối với công lao của Thầy Thím, người được coi như vị thần bảo trợ, chở che cho dân làng được khỏe mạnh, cuộc sống bình an, no ấm và hạnh phúc. Sự tích Thầy Thím phản ánh khát khao chính đáng của người dân lao động về một xã hội công bằng và hạnh phúc, đề cao tính nhân nghĩa, đạo đức, nhân cách cao cả của Thầy Thím, góp phần giáo dục truyền thống, nhân cách và lối sống tốt đẹp cho mọi thế hệ. Lễ hội dinh Thầy Thím hướng mọi người về cội nguồn, duy trì phong tục tập quán truyền thống tốt đẹp; là không gian trao truyền các giá trị văn hóa, cách thức thực hiện các nghi lễ của thế hệ trước cho các thế hệ sau. Không gian Lễ hội còn là nơi củng cố, tăng cường mối đoàn kết, tương thân tương ái trong cộng đồng dân cư; nâng cao ý thức về cội nguồn dân tộc, giá trị đạo đức, nhân cách sống, tinh thần hòa hợp để gắn kết các thành viên trong cộng đồng, hình thành nên một nếp sống cao đẹp và tình làng nghĩa xóm ngày càng bền chặt hơn. Lễ hội dinh Thầy Thím đáp ứng nhu cầu tâm linh của cộng đồng, cầu mong được Thần linh giúp đỡ, chở che để vượt qua khó khăn, thử thách trong cuộc sống thường ngày.

Với giá trị tiêu biểu, Lễ hội dinh Thầy Thím được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 62/QĐ-BVHTTDL ngày 12/01/2022./.

Dương Anh

 (Theo Hồ sơ tư liệu, Cục Di sản văn hóa)


Website Cục di sản văn hoá http://dsvh.gov.vn/le-hoi-dinh-thay-thim-3454











 

LỄ HỘI KỲ YÊN ĐÌNH TÂN AN

Đình Tân An (còn gọi là đình Bến Thế), nằm bên sông Sài Gòn thuộc khu phố 1, phường Tân An, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Đình Tân An ra đời cùng với quá trình khai hoang mở đất lập làng của lưu dân người Việt trên vùng đất này vào đầu thế kỷ XIX. Ban đầu là ngôi miếu với tên gọi Tương An miếu, nơi thờ tự của 4 xã thuộc huyện Bình An xưa, gồm: Tương Hiệp, Tương An, Tương Hòa và Cầu Định. Sau đó, các xã Tương Hiệp, Tương Bình, Cầu Định lần lượt xây dựng đình thần riêng, Tương An miếu trở thành ngôi đình riêng của xã Tương An (nay là phường Tân An). Đình Tân An thờ Quận công Nguyễn Văn Thành. Giống như các đình làng khác ở Nam Bộ, lễ hội Kỳ yên đình Tân An diễn ra hàng năm để tưởng nhớ các bậc tiền bối đã có công khai phá lập nên xóm làng, những vị có công với đất nước trong việc mở mang bờ cõi và cầu cho “quốc thái dân an”, “mưa thuận gió hòa”.

C:\Users\SPRING\Desktop\ảnh vhtt\dinhtanan 5.jpg

 

Đình Tân An tổ chức lễ Kỳ yên hàng năm vào tháng Mười Một Âm lịch. Vào các năm Sửu, Dần, Thìn, Tỵ, Mùi, Thân, Tuất, Hợi, đình Tân An tổ chức lễ qui mô nhỏ (1 ngày), cứ 3 năm đáo lệ, các năm Tý, Mão, Ngọ, Dậu, tổ chức quy mô lớn (3 ngày, từ ngày 14 - 16 tháng Mười Một), có đoàn hát Bội biểu diễn. Về cơ bản, nghi thức cúng tế trong lễ Kỳ yên thường niên chỉ làm lễ Thỉnh sắc, Cúng thần an vị, tế Hậu Bối - Chiến sĩ và Đưa sắc; không làm lễ Thỉnh sanh, Túc yết, Đàn cả, Xây chầu, Đại bội, Tôn vương và diễn tuồng hát Bội như các năm đáo lệ, nên thời gian tổ chức ngắn hơn.

Ngày 14, Ban quý tế làm lễ Thỉnh sắc. Sắc phong ngày thường cất giữ tại nhà cổ của ông Nguyễn Tri Quan (thuộc dòng dõi Tiền Hiền). Đến lễ hội Kỳ yên, Sắc phong được rước về đình an vị bằng các nghi lễ: dâng hương, rượu do Ban quý tế thực hiện cùng đội Học trò lễ rất trang nghiêm. Trước khi về đình, Sắc phong được rước đi một vòng quanh khu dân cư, với mục đích cho Thần chứng kiến cuộc sống của dân làng. Khi đoàn rước sắc về tới đình, trong đình nổi 3 hồi mõ, trống, chiêng và tất cả các đèn được thắp sáng để nghinh Thần.

Tiếp sau là lễ Cúng an vị. Lễ vật gồm có một con heo đã mổ thịt, làm sạch, để nguyên con đặt ở ván son trước bàn thờ Thần. Các bàn thờ trong chánh tẩm (Tiền Hiền, Hậu Hiền, Tả Ban, Hữu Ban) được kiếng/cúng một tợ thịt nọng, các bàn thờ còn lại trong đình kiếng/cúng một bẹ sườn hoặc một tợ thịt. Nghi lễ diễn ra trước bàn thờ Thần, 08 vị Học trò lễ chia thành hai hàng đứng hai bên chiếu tế, tay cầm một cây nến và quan sát chánh tế, bồi tế thực hiện nghi lễ. Ngay sau lễ Cúng an vị là nghi lễ Rước Tổ hát Bội vào đình. Vì hát Bội biểu diễn trong lễ hội Kỳ yên mang ý nghĩa là cúng Thần nên phải xin phép Thần. Sau khi thực hiện xong nghi lễ xin phép Thần, đoàn hát mới được vào đình. Đoàn hát bày sẵn bàn thờ Tổ bên ngoài đình, vị Chánh bái bưng một khay lễ vật gồm trầu, rượu, nhang, đèn, tiền lễ đến bàn thờ Tổ, trao cho Trưởng Đoàn hát Bội đặt lễ vật lên bàn thờ. Trưởng 

đoàn thắp hương trao cho Chánh bái cắm vào bát hương bàn thờ Tổ. Sau đó, Ban quý tế đình khiêng bàn thờ Tổ hát Bội vào đình. Lúc này đoàn hát mới mang đạo cụ vào khu vực được bố trí, trang trí sân khấu, ổn định chỗ nghỉ và sinh hoạt trong các ngày biểu diễn tại đình. 

Buổi chiều, Ban quý tế làm lễ Thỉnh sanh (hay Tỉnh sanh) để xin phép Thần cho dân làng yết vật tế cúng Thần trong nghi Túc yết. Vật tế là một con lợn (heo) đực còn sống, tuyền sắc, mập mạp, khỏe mạnh, không dị tật – người dân địa phương gọi là “Con sanh”. Ban quý tế chuẩn bị một con dao, ba tờ vàng bạc đại, hương, đăng, trà, rượu để làm lễ. Heo tế được tắm rửa thật sạch, cột chặt bốn chân vào một đòn khiêng tay, đặt nằm ở trước sân đình chờ hành lễ. Đến giờ làm lễ, heo tế được hai người đàn ông khỏe mạnh khiêng ra trước hương án Hội đồng ngoại, đầu hướng vào chánh điện. Sau đó, Học trò lễ xướng lễ để Ban nghi lễ thực hiện lễ tế. Chánh tế kiểm tra lễ vật, hóa ba tờ vàng bạc đại huơ lên cổ heo tế, dùng rượu rửa sạch chỗ nọng heo, rồi lấy dao miết lên đó một đường tượng trưng. Tể giả đưa heo đi yết, Chánh tế dâng trà lên bàn thờ Thần, kết thúc nghi lễ Thỉnh sanh. Thời xưa, đình Tân An yết heo tại sân đình nhưng hiện nay heo tế được đưa đến lò mổ hoặc đến nhà Tể giả để yết. Mặc dù vậy, nghi thức lấy mao huyết vẫn được người dân thực hành đầy đủ.

Buổi tối là Lễ Túc yết với ý nghĩa mời Thần về dự lễ (nghinh Thần cúc cung bái). Lễ vật trong nghi Túc yết là con heo được làm trong lễ Tỉnh sanh, trên lưng cắm một con dao, sáu chung mao, huyết đặt trên bàn thờ Thần, cùng với hương, đăng, trà, quả bày sẵn trước đó. Thực hiện lễ Túc yết gồm có: Chánh tế, Bồi tế, Đông hiến, Tây hiến, Học trò lễ (16 người), Đào thài (06 người của đoàn hát bội), các thị lập cùng với các thành viên trong Ban quý tế phụ bàn hương. Trong quá trình thực hiện nghi thức, các Đào thài đứng hoặc đi sau các vị Học trò lễ để hát tán chúc tụng. Các Đào thài chỉ tham gia trong lễ Túc yết và lễ Đàn cả, hát các bài thài iống nhau, gồm: Tuần hương, Tuần sơ, Tuần á, Tuần chung, Ẩm phước (lễ Đàn cả), Thọ tợ (lễ Đàn cả), Tuần trà và Phần chúc với nội dung dâng lễ vật lên Thần, cầu chúc Thần “Thánh thọ vô cương”, tạ ơn Thần đã ban phước trước nay và mong Thần tiếp tục ban nhiều phước lộc cho bá tánh, nhân dân, cầu no đủ. Sau khi thực hiện xong lễ Túc yết, heo tế được đưa xuống nhà bếp, phân ra thành nhiều tợ thịt và luộc chín tiếp tục đưa lên các bàn: bàn thờ Thần đặt bộ thủ vĩ (đầu, đuôi, móng, lòng, thịt), các bàn thờ khác kiếng/cúng mỗi nơi một tợ thịt, một bẹ sườn và một ít lòng luộc. Nước luộc heo dùng nấu cháo phục vụ bà con dân làng và những người túc trực tại đình.

 

Sau lễ Túc yết là lễ Xây chầu. Trống chầu sơn màu đỏ, mặt trống vẽ hình tròn âm dương được đặt theo hướng đại lợi (thường là hướng Đông), mặt trống được che kín bằng vải đỏ. Đứng lễ Xây chầu phải là người cao niên trong làng có cuộc sống mẫu mực và con cháu đề huề. Lễ Xây chầu ở đình Tân An thuộc loại Xây chầu văn, về cơ bản chia làm 2 phần: Thỉnh chầu và Xây chầu.

 

Nghi thức Thỉnh chầu thực hiện trước hương án Hội đồng ngoại, tại gian võ ca của đình. Sau khi xướng quan hô to “Chấp sự viên nhập tịch”, Chấp sự viên nhận roi chầu đến gian võ ca lấy vải che mặt trống ra, dùng khăn sạch lau mặt trống sau đó quấn khăn vào roi chầu. Chấp sự viên dùng roi chầu vẽ bùa chú lên mặt trống “tứ tung ngũ hoành” (bốn đường dọc, năm đường ngang tượng trưng thiên địa tạo hóa); sau đó lùi lại ba bước, viết lên mặt đất hai chữ “sát quỷ”, rồi tiến tới đạp lên hai chữ này để trấn áp ma quỷ. Chấp sự viên dùng hai tay cầm trống chầu và vải che trống chầu lên bái, đọc Thơ phù, Phản nhất trịch, Kích tam thinh, xen lẫn là những hồi trống sau từng đoạn. Sau hồi trống cuối, Chấp sự viên trao dùi trống lại cho người cầm chầu, đánh tiếp ba hồi trống báo hiệu cho đoàn hát Bội thực hiện nghi thức Đại bội. Từ nghi thức này, dân gian có câu “đuôi xây chầu, đầu đại bội”.

 

Lễ Đại bội do đoàn hát Bội đảm nhiệm. Nếu như lễ Xây chầu có ý nghĩa khai thông thái cực, thì lễ Đại bội trình diễn lại quá trình dịch lý từ Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái, Bát quái sinh Ngũ hành, Ngũ hành tác động qua lại sinh ra vạn vật. Lễ Đại bội về cơ bản chia làm 6 phần: Khai thiên tịch địa, Xang nhật nguyệt, Tam tài, Tứ thiên vương, Đứng cái và Gia quan Tấn tước. Sau gần ba tiếng thực hiện, Lễ Đại bội kết thúc ngày thứ nhất của Đại Lễ hội Kỳ yên. Hát Bội trong cúng đình không đơn thuần là trò diễn văn nghệ giúp vui cho bà con, cái chính là để thực hiện nghi lễ dâng Thần. Vì vậy, hát Bội (nhất là trong lễ Đại bội, Tôn vương) phải tuân thủ một cách nghiêm ngặt những quy phạm mang tính chính thống. Các đào kép biểu diễn phải nghiêm túc, thành kính và thực hiện dưới sự giám sát của người cầm chầu. Việc cầm chầu hát ở đình rất quan trọng, dân gian cho rằng, đó là người đại diện cho Thần, cho dân làng để phê phán, khen chê người hát Bội thông qua tiếng trống chầu. Vì vậy, người cầm chầu đòi hỏi phải am hiểu nội dung, bài bản, hình thức cầm chầu và phải công tâm để đánh trống khen, chê đúng người, đúng việc, không buồn lòng người diễn và thỏa lòng thưởng thức của người dân.

 

Sáng 15 là nghi lễ tế Hậu bối (3 hương án thờ Tiền vãng Viên Quan, Tiền vãng Hương chức, Tiền vãng dịch mục) và Chiến sĩ (hương án thờ liệt sĩ và miếu thờ chiến sĩ). Trong buổi sáng, đoàn hát Bội tiếp tục biểu diễn phục vụ cộng đồng.

Buổi tối, Ban quý tế đình làm lễ Đàn cả (còn gọi là Cúng Chánh, Đoàn Cả, Đại đoàn) với ý nghĩa tạ ơn Thần đã phù hộ cho dân làng được bình an, khang thái, mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi. Nghi thức lễ Đàn cả về cơ bản giống nghi Túc yết, chỉ thay đổi lời xướng từ “nghinh Thần cúc cung bái” thành “tạ Thần cúc cung bái” và thêm phần ẩm phước, thọ tợ tức là Ban quý tế đại diện dân làng hưởng lộc của Thần. Sau lễ Đàn cả, Đoàn hát Bội biểu diễn thêm một suất tuồng nữa kết thúc ngày thứ 2 của Lễ hội Kỳ yên.

Sáng 16, Đoàn hát Bội tiếp tục diễn suất tuồng cuối, trong đó có lễ Tôn vương. Đình Tân An thường chọn vở San Hậu (hồi thứ 3) để diễn và làm lễ tôn vương, bởi nội dung của vở tuồng này xây dựng theo công thức “Vua băng – Nịnh tiếm – Bà thứ lên chùa – Chém nịnh – Định đô – Tôn vương – Tức vị”. Sau cảnh “định đô”, Hoàng từ sẽ dâng ấn, kiếm lên bàn thờ Thần, gọi là Tôn vương. Ban quý tế và Học trò lễ sắp thành 2 hàng dài dọc từ võ ca lên chánh điện, mỗi người cầm 1 cây nến đã thắp sáng để nghinh ấn, kiếm của Thần. Một thành viên Ban quý tế cầm lọng che ấn kiếm được Hoàng tử trịnh trọng bưng trên tay trao cho vị trưởng lão dâng lên hương án thờ Thần, một kép hát hô lớn “phản tiền vi hậu”, tất cả các đào kép quay mặt đi nơi khác, không được nhìn vào chánh tẩm. Sau khi vị trưởng lão dâng ấn kiếm lên án tiền, tiếp tục hô “Phản hậu vi tiền”, mọi người quay lại nhìn lên bàn thờ và cùng tung hô “Tôn vương tức vị, nối dõi Tiên hoàng, chúc thọ tỷ nam san, đồng tung hô vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế”. Bên ngoài, dân làng yên lặng thành kính trong lễ tôn vương. Sau lễ Tôn vương các đào kép trở lại sân khấu để diễn tiếp cảnh “tức vị” – tức là Hoàng tử lên ngôi Hoàng đế và kết thúc suất hát cuối cùng trong lễ hội Kỳ yên.

Chiều 16, dân làng làm lễ đưa sắc về nơi cất giữ tại nhà cổ Nguyễn Tri Quan – gọi là lễ Đưa sắc. Về cơ bản, nghi thức cúng tế, đội hình đoàn đưa sắc cũng giống trong lễ Thỉnh sắc, nhưng số lượng người tham gia thường ít hơn.

 

Lễ hội Kỳ yên đình Tân An là minh chứng lịch sử về quá trình mở cõi về phương Nam, khai hoang lập ấp của cư dân địa phương. Bên cạnh đó, Lễ hội thể hiện văn hóa đặc trưng của cư dân gốc nông nghiệp, cầu cho mưa thuận gió hòa, đất đai tươi tốt, mùa màng bội thu…; thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây. Thực hành lễ hội là cách để người dân bày tỏ lòng tri ân đối với các vị Thần đã có công bảo vệ, phù hộ xóm làng, tri ân các vị Tiền Hiền, Hậu Hiền, các anh linh liệt sĩ có công bảo vệ quê hương, đất nước. Ngôi đình không chỉ thỏa mãn nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng, mà còn là không gian sinh hoạt văn hóa của người dân địa phương. Thực hành lễ hội thể hiện tính cố kết cộng đồng, phản ánh tính cách người dân Nam Bộ và tính tự chủ của cộng đồng địa phương. Tham gia vào các công việc của đình làng, lễ hội là cả cộng đồng, không phân biệt nam nữ, thể hiện sự bình đẳng giới trong xã hội mới.

Lễ hội Kỳ yên đình Tân An về cơ bản vẫn được người dân địa phương bảo lưu, thực hành đầy đủ và khá trọn vẹn. Với giá trị tiêu biểu trên, Lễ hội Kỳ yên đình Tân An được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 60/QĐ-BVHTTDL ngày 12/01/2022./.

 

                                                 Dương Anh

(Theo Hồ sơ tư liệu, Cục Di sản văn hóa)


                      http://dsvh.gov.vn/le-hoi-ky-yen-dinh-tan-an-3455














 

LỄ HỘI ĐUA GHE NGO CỦA NGƯỜI KHMER

Cho đến nay vẫn chưa thể xác định được nguồn gốc hình thành và phát triển của lễ hội Óoc om bóc gắn với việc đua ghe Ngo của người Khmer, nhưng trong dân gian hiện lưu truyền rất nhiều truyền thuyết liên quan đến lễ hội này, trong đó có câu chuyện về tiền kiếp của đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Với quan niệm Thần linh giúp đỡ con người và con người có thể mạo phạm đến Thần linh nên hàng năm, người Khmer làm lễ để chuộc tội và tạ ơn Thần. Lễ hội cúng Trăng - Oóc om bóc, Thả hoa đăng, Thả đèn trời, đua ghe Ngo chính là hình thức mà người Khmer muốn bày tỏ lòng tri ân của mình đối với Thần Nước, Thần Đất, cầu xin sự “tha thứ” của Thần về những hành động của con người đã làm tổn hại đến môi trường xung quanh.

C:\Users\SPRING\Desktop\ảnh vhtt\2 1.jpg

Tương truyền, tục đua ghe Ngo của người Khmer ở Sóc Trăng lần đầu tiên được tổ chức tại “Pem Kon Thô” (tức vàm Dù Tho ngày nay thuộc huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng). Sau năm 1975, đua ghe Ngo được tổ chức tại sông Nhu Gia và đến nay được tổ chức tại Kinh Sáng (hay còn gọi là sông Xung Đinh), thuộc trung tâm tỉnh lỵ Sóc Trăng. Từ năm 2013, khi Thủ tướng Chính phủ cho phép Sóc Trăng đứng ra tổ chức “Festival Đua ghe Ngo đồng bào Khmer đồng bằng sông Cửu Long - tỉnh Sóc Trăng lần thứ Nhất năm 2013”, theo định kỳ 2 năm tổ chức 01 lần, đua ghe Ngo được tổ chức với quy mô lớn hơn.

Lễ cúng Trăng (Oóc om bóc) hay lễ "Đút cốm dẹp" (Bon sâm peah preah khe) là lễ hội truyền thống của đồng bào dân tộc Khmer. Lễ này diễn ra vào đêm trước rằm tháng “Ka-đâk” (ứng với ngày 15 tháng Mười Âm lịch), cũng là ngày cuối cùng của mùa Hạ và là thời gian thu hoạch các loại hoa màu, trong đó có lúa nếp là sớm nhất. Lễ vật cúng trăng gồm cốm dẹp, dừa, mía, khoai mì, khoai môn…

Ngày 15 tháng Mười là hội đua ghe Ngo truyền thống với sự tham gia của nhiều đội đua đến từ khắp các tỉnh/thành khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Đua ghe Ngo trong lễ hội Óoc om bóc được thể hiện dưới 2 hình thức, đó là những nghi thức tế lễ ở gia đình hoặc ở chùa và hội đua ghe Ngo diễn ra tại Kinh Sáng.

"Tuk Ngô" (ghe Ngo) có kết cấu khởi thủy là thuyền độc mộc, làm bằng cây sao. Xưa người dân vào rừng tìm gỗ sao, làm lễ cúng Thần giữ rừng (Neak ta Prey ph'nôm) để được bình an vô sự rồi mới đốn cây. Họ phải dùng sức trâu hoặc voi kéo cây xuống sông, kết thành bè rồi thả theo dòng nước. Cây sao đem về phải cưa, đục, đẽo, khoét thành chiếc ghe độc mộc. Sau này, ghe được cải tiến nối thêm đầu và đuôi đều cong, người Khmer gọi là Tuk Ngô (Tuk là ghe, Cong là ngô - đọc thành Ngo). Những năm gần đây, người thợ đã không ngừng cải tiến kỹ thuật đóng ghe để chiếc ghe Ngo lướt nhanh nhất có thể. Ghe Ngo được đóng dài hơn, từ 30 - 31m, có sức chứa từ 55 - 60 người, thay vì chỉ từ 22 -27m như trước đây. Ghe Ngo có hình thù tựa con rắn Naga, mình thon, thoai thoải về phía trước, đầu uốn cong và hơi thấp hơn sau lái một chút, có nhiều khoang, trên mỗi khoang đóng nhiều thanh cây ngang dài 1,2m làm băng vừa đủ 2 người ngồi bơi thoải mái theo từng cặp song song gồm 25 đôi. Ghe Ngo có dầm riêng, làm theo nhiều kích cỡ tùy theo từng vị trí người bơi. Đặc biệt, nghe Ngo có hai cây kềm chịu lực, đường kính 0,2m, thường là thân cây tràm vì cây này có độ dẻo, giúp cho ghe nhún nhảy và phóng nhanh, đồng thời giúp giữ chặt ghe không bị gãy đôi. Một cây kềm dài suốt lòng ghe, một cây kềm lái (từ giữa thân ghe về phía sau), gọi là Đon Sonh-Tuôch (cây cần câu). Thân ghe được chà đi chà lại cho thật trơn bóng và sơn màu đen. Trên be sơn một lằn trắng, đỏ hoặc vàng tùy ý thích của sư cả trụ trì, có độ dài khoảng 5cm. Hai bên be chạm trổ hoặc vảy rồng, rắn theo mô típ Naga hay hoa lá cách điệu. Ở hai bên mũi ghe vẽ hình các con thú như: rồng, chim công, sư tử, cọp, voi... vừa tượng trưng cho vẻ đẹp, đồng thời biểu hiện cho sức mạnh của ghe mình. Ngày nay, những thân cây sao bằng 2 người ôm hầu như không còn nữa nên ghe Ngo hiện đại được đóng bằng ván cây sao. Có lẽ do kết cấu của ghe ngày nay mỏng và nhẹ hơn ghe truyền thống nên lướt nhanh hơn. Ghe Ngo được bảo quản trong nhà để ghe dựng trong khuôn viên chùa. Mái che, dàn đà cao chắc chắn để che mưa nắng, phòng mối mọt. Nhà ghe là nơi thiêng liêng, ngày xưa phụ nữ không được đến gần. Tuy nhiên, những những năm gần đây, cuộc đua đã có các đội ghe nữ tham gia tranh tài.

Người Khmer tin rằng, ghe Ngo là vật thiêng, làm việc gì với ghe Ngo cũng phải làm lễ. Để chuẩn bị cho cuộc đua, phải làm lễ hạ thuỷ để kêu gọi Thần linh (Prey) trợ giúp đội ghe thắng lợi. Buổi lễ có sự tham gia của các tay đua và cổ động viên trong phum sóc. Tùy điều kiện mỗi chùa mà lễ hạ thủy có cách thức tiến hành khác nhau, nhưng nhìn chung diễn ra theo trình tự sau: Người dân trong phum sóc tập trung về chùa cùng chuẩn bị lễ vật dâng cúng. Lễ vật được bày cúng trên một chiếc bàn rộng trước mũi ghe Ngo. Thầy cúng làm lễ cùng với tiếng nhạc ngũ âm tấu khúc mời gọi vị Thần bảo vệ ghe Ngo là nữ thần Neng Khmau hay Neng Teo. Nhạc kết thúc, các vị sư đứng ở hai bên phần mũi ghe đọc kinh để cầu bình an, may mắn, thỉnh thoảng vẩy nước vào mũi ghe cầu may mắn, thuận lợi… Tiếp theo, thầy cúng quỳ lạy, cúng dâng lễ vật xin hạ thủy ghe Ngo, cầu xin sức mạnh, chiến thắng mọi địch thủ. Thầy cúng thoa dầu dừa lên mũi ghe và chia cho các tay đua thoa lên đầu. Các tay đua cùng thề nguyện đoàn kết, giành thắng lợi. Trống, còi nổi lên, các tay đua đứng hai bên ghe cùng nhấc bổng ghe lên và từ từ ra bờ sông, hạ xuống nước. Sau lễ cúng, miếng vải đỏ tượng trưng cho nữ thần Neng Khmau được đặt lên mũi ghe trong suốt cuộc đua. Các tay đua lên ghe theo vị trí đã được sắp xếp rồi đồng loạt vung tay chèo theo tiếng còi của huấn luyện viên. Chiếc ghe xé nước lao đi vun vút trong tiếng hò reo của những người theo dõi.

Thông thường, lễ hạ thủy sẽ diễn ra trước cuộc đua chính thức khoảng một tuần. Thời gian đó, đội đua thường xuyên tập luyện trên ghe để đảm bảo sự dẻo dai, đều tay, bền bỉ và quan sát và điều chỉnh hai cây kềm trên ghe sao cho phóng đi một cách nhanh nhất. Các đội thường tập dựa vào con nước vì nước ròng (kém) không tập được. Thời gian tập chủ yếu là sáng sớm và chiều mát để các tay đua không bị mất sức. Tuy nhiên, người ta còn chọn những buổi trưa nắng để tập nhằm nâng cao sức chịu đựng khi vào đua chính thức bởi khi đua có lúc đua từ sáng đến chiều, đòi hỏi sự bền bỉ về thể lực của các tay đua. Trên bờ, người dân ra bờ sông cổ vũ các tay đua của phum, sóc mình luyện tập rất đông.

Đội đua ghe thường có 70 - 80 người gồm tay bơi chính thức và dự bị, là những trai tráng khỏe mạnh được cộng đồng lựa chọn. Trên ghe Ngo có 3 người điều khiển. Người ngồi ở vị trí mũi ghe phải là người khá giả, có uy tín trong phum sóc. Khi được lựa chọn, người ngồi mũi là người chịu trách nhiệm chỉ đạo kỹ thuật bơi của toàn đội, chỉ đạo các nghi lễ liên quan tới hoạt động đua ghe, chỉ đạo chuẩn bị lễ cúng, nuôi các tay bơi (“con dầm”) ăn, tập luyện và lo các chi phí khác cho cuộc đua (ngày nay, chi phí cho cuộc đua một phần được chính quyền địa phương hỗ trợ, một phần do nhà chùa quyên góp từ cộng đồng cư dân, tuy nhiên ở một số phum sóc vẫn còn giữ lệ này). Người thứ hai chịu trách nhiệm điều khiển chung bằng cách ra hiệu lệnh bằng còi hoặc cồng, đặc biệt là thúc giục nhóm tay bơi khu vực giữa ghe, được gọi là blong kchay. Người ngồi đuôi giữ nhiệm vụ điều chỉnh kỹ thuật của các tay bơi, còn gọi là chỉ huy dàn lái (sayak). Sau người ngồi mũi là cặp “con dầm” được gọi là “s’ma tưm”. Cặp này phải có kỹ thuật bơi thật nhanh, theo đúng nhịp cồng hoặc còi để làm chuẩn mực cho các tay bơi ngồi phía sau. Tiếp theo là “kôn chro va” gồm 6 người ngồi bơi; rồi đến “kô lich” là 28 người quỳ bơi, khi ghe gần đến đích, 28 người này đồng loạt đứng lên, một chân làm trụ, một chân dồn lực đẩy hợp cùng cánh tay bơi dầm nhằm làm cho ghe lao nhanh về đích; sau đó là 8 “sroong dôn” làm nhiệm vụ nhún bơi. Cuối cùng là 3 tay lái: lái chính đứng sau cùng, 2 lái phụ đứng song song phía trước lái chính. Vì chiếc ghe Ngo có hình dáng thon dài như thân hình rắn, hai đầu cong lên, nên khi bơi, trông chiếc ghe như một con rắn đang trườn mình trên mặt nước, rất sinh động. Nhưng nếu động tác của đội bơi phối hợp không nhịp nhàng, ghe dễ bị mất thằng bằng và lật chìm. Vì thế, các tay bơi phải ra sức tập cho thuần thục, theo đúng vị trí của mình. Trước khi đi đua, các đội bơi đều phải tập bơi trên cạn hàng tháng trời. Thông thường, điểm tập bơi là trước sân chùa. Các tay bơi được sắp xếp theo vị trí của mình trên ghe và tập theo tiếng cồng hay còi của huấn luyện viên cho thật nhịp nhàng, ăn ý.

Theo kinh nghiệm của những đội đua đã từng dành chức vô địch, để ghe lao đi thật nhanh, ngoài kỹ thuật đóng ghe, đòi hỏi các tay chèo phải có sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác từ người ngồi đầu mũi cho đến người lái cuối ghe, tất cả đều như một theo hiệu lệnh bằng còi của người giữ nhịp đứng giữa ghe (người này được xem là “nhạc trưởng” của đội chỉ huy các tay chèo gia tăng nhịp chèo, tốc độ chèo hay chèo đều tay giữ sức cho trận tiếp theo). Có thể nói, đây là kỹ thuật rất quan trọng quyết định thắng hay bại của cả cuộc đua.

Sáng sớm trước ngày đua, các đội đua làm lễ xuất quân. Địa điểm làm lễ xuất quân thường diễn ra ở chùa, ở đoạn sông hay kênh nằm ở trung tâm của phum, sóc. Trong ngày này có đầy đủ chính quyền, sư sãi chùa, chức sắc, các trưởng lão và hầu hết bà con trong phum, sóc. Thường ghe đua được bơi biểu diễn một đoạn ngắn để tạo khí thế lấy đà. Sau đó, ghe đua được một chiếc ghe máy có mã lực mạnh kéo; đi cùng là một chiếc ghe cà hâu (làm nhiệm vụ hậu cần), có cả nơi nghỉ ngơi cho đoàn đua, chở theo dàn trống, dàn nhạc ngũ âm với trên dưới 100 người tham gia, chưa tính cổ động viên tự đi.

Các đội đua đã được bốc thăm chia bảng từ trước, đến giờ đua tất cả các đội ghe tham gia đều tập trung tại khán đài để nhận lịch đua. Đường đua là một đoạn sông từ sông Maspéro (trên đường Lý Thường Kiệt) đến sông Xung Đinh, mặt sông được chia làm hai bằng cách cắm phao cờ ở giữa. Các ghe phải bơi đúng đường đua của mình và cách nhau ít nhất 5m, tuyệt đối không để mái chèo chạm nhau, không nắm, kéo mái chèo hoặc mạn ghe đội bạn. Trong suốt cuộc đua, người bơi không được tát nước sang ghe đội bạn, không có những lời nói, hành động thiếu văn hóa với đội bạn. Nếu trọng tài phát hiện đội ghe nào vi phạm, Ban Tổ chức sẽ xem xét cảnh cáo hoặc truất quyền thi đấu.

Hội đua ghe tổ chức theo từng đợt một trong 2 ngày, từ vòng loại đến chung kết. Mỗi đợt đua là một cặp ghe theo bảng đã được chia. Cuộc đua chịu sự chi phối của thời gian con nước lên, tức khoảng từ 13h00 trở đi. Nếu có đua buổi sáng, thì phải bắt đầu từ 7h30.

Các ghe vào vị trí xuất phát theo thứ tự đã bốc thăm. Theo qui định của Ban Tổ chức, ghe nam xuất phát bằng cách nắm dây cố định để so mũi ghe bằng nhau, mái chèo đưa lên khỏi mặt nước. Còn ghe nữ xuất phát bằng cách gióng hàng so mũi ghe bằng nhau. Nếu có ghe phạm quy (mũi ghe cao hơn dây xuất phát, mái chèo không đưa lên khỏi mặt nước theo qui định hoặc xuất phát trước khi có khẩu lệnh...), Trọng tài sẽ nổi hồi còi, thông báo tạm ngưng đợt đua, nhắc nhở ghe vi phạm và hướng dẫn ghe trở lại vị trí xuất phát. Ghe nào vi phạm trong lần xuất phát thứ 02 sẽ bị xử thua ở lượt đua đó. Chỉ khi nào có lệnh xuất phát từ Trọng tài, các đội ghe mới được phép bơi.

Vào cuộc đua, từng đợt ghe một có thể là một đôi ghe hoặc ba ghe cùng tiến về phía trước ào ào lướt sóng. Tiếng hò reo, cổ vũ, tiếng trống, tiếng kèn, dàn nhạc ngũ âm vang lên làm cho các tay đua không biết mệt mỏi.

 Sau khi loại từng đối thủ, để vào chung kết, đội đua cần phải có các tay đua không chỉ mạnh mà còn bền, kèm theo người chỉ huy giỏi và công việc hậu cần tốt. Kết thúc cuộc đua, ghe chiến thắng được trao giải trước tiếng vỗ tay của rừng người. Đặc biệt, họ không quan trọng quá phần thưởng và đội nào thắng cuộc mà tất cả đều vui vẻ, hẹn gặp lại cuộc đua năm sau.

Kết thúc cuộc đua, tất cả các đội ra về cùng ghe máy hộ tống cổ vũ. Những ghe đi chung đoạn đường sông thì cùng kết thành một đội, cùng vui liên hoan, ca múa trên chiếc ghe cà hâu (ghe hậu cần).

Trong lễ hội Oóc om bóc, ngoài nghi lễ cúng trăng, đua ghe Ngo, người Khmer còn thực hành các hoạt động thả đèn gió, thả đèn nước, cờ ốc, bi sắt, múa rom vông, rong leo…, thu hút đông đảo người dân Khmer và cả người Kinh, người Hoa cùng tham dự.

Đua ghe Ngo trong lễ hội Oóc om bóc gắn liền với sự hình thành và phát triển của tộc người Khmer có một vị trí quan trọng trong cộng đồng, có mối quan hệ mật thiết đến tín ngưỡng nông nghiệp thể hiện thông qua các lễ vật dâng cúng lên thần linh, cách thực hành nghi lễ. Đua ghe Ngo nhằm đáp ứng nhu cầu về mặt tinh thần của mỗi thành viên trong cộng đồng, giữ gìn và trao truyền cho muôn đời sau. Hình thức tổ chức hội đua ghe Ngo phản ánh được tự nhiên, vũ trụ, con người và vạn vật cũng như văn hóa tộc người... Hội đua ghe Ngo nhằm bày tỏ lòng tri ân của mình và cầu xin sự “tha thứ” của Thần Đất và Thần Nước về những việc làm của con người đã ảnh hưởng đến môi trường xung quanh, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, thóc lúa đầy bồ, cuộc sống no đủ... Đua ghe Ngo là sự phản ánh ước nguyện về một cuộc sống dân an, vật thịnh qua việc khấn cầu vị thần Mặt Trăng và tổ chức đua ghe. Ngoài ra, các trò chơi dân gian khác cũng phần nào nói lên sự gắn bó của lễ hội với môi trường tự nhiên và xã hội của người Khmer. Hội đua ghe Ngo trong lễ hội Óoc om bóc của người Khmer ở Sóc Trăng không những góp phần giáo dục con người về tính tập thể, tinh thần kỷ luật, ý chí vươn lên dành chiến thắng, rèn luyện thể chất, sức mạnh dẻo dai, sự khôn khéo và sức chịu đựng của con người. Hội đua ghe Ngo còn thể hiện được tính cộng đồng, tinh thần đoàn kết tạo thành một sức mạnh vô song, thể hiện niềm tự hào dân tộc.

Với giá trị tiêu biểu, Lễ hội Đua ghe Ngo của người Khmer được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia tại Quyết định số 74/QĐ-BVHTTDL ngày 12/01/2022./.

   

http://dsvh.gov.vn/le-hoi-dua-ghe-ngo-cua-nguoi-khmer-3441

 

LỄ MỪNG CƠM MỚI CỦA NGƯỜI XINH MUN TỈNH ĐIỆN BIÊN, TỈNH LÀO CAI

Người Xinh Mun (xã Chiềng Sơ, huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên) canh tác trên nương là chính, và tin rằng kết quả sản xuất do quyết định của hồn lúa và thần nương, thần nước. Do vậy, họ thường tiến hành các nghi lễ nông nghiệp cầu mong các thế lực siêu nhiên phù hộ cho con người sức khỏe, mùa màng bội thu. Trong đó, Lễ mừng cơm mới (Trả pa me) là nghi lễ quan trọng nhất trong đời sống của người Xinh Mun.

 

C:\Users\SPRING\Desktop\ảnh vhtt\10000.jpg

C:\Users\SPRING\Desktop\ảnh vhtt\0806commoi1 sua.jpg

 

Lễ mừng cơm mới được các gia đình người Xinh Mun duy trì thường xuyên, được tổ chức vào khoảng cuối tháng 8 đầu tháng 9 hàng năm, thời gian cụ thể tùy thuộc vào sự lựa chọn của các gia đình. Nghi lễ được thực hiện tại gian thờ Tổ tiên (gian đầu tiên ở ngay lối cầu thang chính). Người Xinh Mun không dựng bàn thờ riêng, chỉ đặt một tấm phên nhỏ hình chữ nhật buộc vào một gậy tre dài khoảng 1,5m - 2m cắm ở giữa gian thờ (sát vách tường phía sau) và họ quan niệm đây là nơi trú ngụ của Tổ tiên; tổ chức Lễ cúng cơm mới hàng năm, chủ nhà (là nam giới) sẽ quét dọn và thay mới phên thờ. Lễ mừng cơm mới được xem như Tết truyền thống của đồng bào, vì đây là nghi lễ đánh dấu sự khởi đầu và kết thúc mọi việc trong năm, chu trình của mọi hoạt động trong đời sống sinh hoạt bắt đầu diễn ra từ Lễ mừng cơm mới của năm trước đến Lễ mừng cơm mới của năm sau.

Trước khi diễn ra Lễ mừng cơm mới, chủ nhà mang lễ vật đến nhờ thầy mo (thầy cúng) hoặc người có uy tín trong bản chọn ngày đẹp để làm lễ (ngày này không trùng với ngày lên nhà mới vì ngày lên nhà mới chủ nhà nhóm bếp lửa cháy cả ngày để mang hơi ấm và may mắn cho gia đình, nên ngày này rất nóng, tránh nương rẫy bị khô hạn nếu cúng cơm mới). Họ cũng kiêng chọn ngày sinh, ngày mất của những người trong gia đình. Nếu trường hợp gia đình đã chọn ngày cúng cơm mới, nhưng trong bản có người mất thì gia đình đó sẽ dừng cúng cơm mới và lùi lại sang ngày khác, dành thời gian đến giúp đỡ và chia buồn với gia đình có người mất.

Mọi người trong gia đình chuẩn bị lễ vật, lương thực, thực phẩm để dâng cúng Thần linh, Tổ tiên và mời anh em trong dòng họ, những người bà con thân thiết trong bản tới chia vui. Lễ vật đều liên quan đến nương rẫy hoặc món ăn truyền thống cổ xưa của Tổ tiên người Xinh Mun, gồm lúa mới, sâu măng, bọ măng, dế, cá, rau củ, quả tự trồng được trên nương (quả dưa, quả bí), măng lấy trên rừng. Ngày nay, còn có thêm thịt lợn, thịt gà. Trước đây, lễ vật phải có con dúi, nhưng nay, để bảo vệ rừng, người Xinh Mun đã thay đổi quan niệm phải có thịt thú rừng.

Ngoài ra, các gia đình còn chuẩn bị những thứ để phục vụ cho việc làm lễ, như: ống tre, chai đựng nước (bong hót); phên thờ (Ta lé sun yếng); chum rượu cần. Phên thờ tượng trưng cho bàn thờ, là nơi trú ngụ của Tổ tiên, khi làm Lễ mừng cơm mới, chủ nhà sẽ lấy gói cơm và thức ăn cùng nắm lúa mới dắt, gài vào giữa phên. Rượu cần được người Xinh Mun làm bằng cách đồ chín gạo nếp cẩm, nếp nương, trộn đều với men (trước đây làm bằng lá cây rừng, ngày nay, thường mua men có sẵn) cho vào trong chum ủ, rải một lớp trấu, một lớp lá cây lên, ủ khoảng một tuần là có thể uống được. Cũng có gia đình chuẩn bị chai rượu thay cho rượu cần. Chủ gia đình sẽ trực tiếp dọn dẹp bàn thờ Tổ tiên; phân công các thành viên trong nhà dọn dẹp nhà cửa, chuẩn bị lễ cúng và quyết định mời người tham gia cùng gia đình. Trước đây, chỉ có người trong dòng họ mới được mời, nhưng nay có thể thêm cả khách của gia đình.

Lễ Mừng cơm mới do chủ gia đình (chọm yệng) thực hiện nghi lễ, trong đó ông chủ nhà sẽ cúng Tổ tiên bên Nội (ở gian thờ trong nhà), trường hợp không có người làm cúng thì mời anh em trai trong họ; bà chủ nhà sẽ cúng Tổ tiên bên Ngoại (ở nhà nhỏ được dựng bằng tre, được gọi là “iêng họ”, nếu bà chủ nhà không còn thì con gái, cháu gái sẽ làm cúng thay, trường hợp không có con gái, cháu gái thì chủ gia đình sẽ làm lễ xin phép không thờ cúng Tổ tiên bên Ngoại vì không có người nối dõi.

 Theo tập tục của người Xinh Mun, “Iêng họ” được dựng khi người con gái về nhà chồng, có bố mẹ đẻ mất thì con gái sẽ lập nhà nhỏ ở ngoài vườn để thờ cúng. Chủ nhà chọn ngày đẹp dựng nhà nhỏ, tránh ngày mất, ngày chôn cất ông/bà, cha/mẹ bên Nội, bên Ngoại. Khi dựng xong, người con gái sẽ dâng lên nắm cơm nếp và khấn mời cha mẹ, ông bà đã mất về ngụ tại nhà nhỏ “Iêng họ” để con cháu thờ cúng và tỏ lòng thành kính, biết ơn Tổ tiên. Người Xinh Mun không lập bát hương, không sử dụng hương mà chỉ khấn mời như một cuộc trò chuyện của chủ nhà với người đã mất, chỉ làm cúng vào dịp Lễ mừng cơm mới.

Ngày làm lễ, thường bà chủ gia đình hoặc những người phụ nữ trong nhà lên nương hái lúa về làm lý từ sáng sớm. Họ chọn nương lúa đẹp nhất, năng suất nhất để cắt những bông lúa đầu tiên của mùa gặt, với ý niệm đi đón hồn lúa về dự lễ. Tới nhà, họ đi cầu thang bên phải (phía lên bếp) đưa nắm bông lúa cho chủ nhà, tránh không cầm lúa đi qua cầu thang bên trái, nơi có gian thờ Tổ tiên. Lúa mới chỉ được mang vào nhà khi chính thức thay mới bàn thờ, bày mâm cúng mời tổ tiên về ăn cơm mới. Lúa mang về, ông chủ nhà bước vào trong Khlọ hóc (gian thờ) báo cáo với Tổ tiên: ngày hôm nay gia đình sẽ làm Lễ mừng cơm mới. Trong khi đó, bà chủ nhà cũng ra vườn dọn dẹp gian thờ Tổ tiên bên Ngoại. Nếu lán thờ bị mục, hỏng thì bà chủ nhà sẽ thay mới rồi khấn báo với bố mẹ, ông bà và Tổ tiên bên Ngoại biết hôm nay gia đình làm Lễ Mừng cơm mới, mời Tổ tiên về dự Lễ. Theo truyền thống, trước khi vào nghi lễ cúng chính thức chủ nhà khấn báo cáo xin phép Tổ tiên cho gia đình làm Lễ, với lễ vật cúng là  đĩa trầu cau bởi họ quan niệm “miếng trầu là đầu câu chuyện” và người Xinh Mun trước đây cũng có tục ăn trầu. Tuy nhiên, ngày nay, tục ăn trầu không còn, việc sắp trầu cau mời tổ tiên về dự lễ cũng bị mai một, chủ nhà chỉ cần khấn báo cáo tổ tiên là được. Sau đó ông sẽ cầm bó chổi được làm từ những cành tre, trúc nhỏ đem xua mạng nhện bám trên tường và xung quanh gian thờ, vừa mang ý nghĩa dọn dẹp, vừa để xua đi cái cũ, những điều không may mắn, đón những điều mới mẻ, thuận lợi hơn cho gia đình. Quét dọn xong, chủ nhà thay mới bàn thờ, mang ống nước bằng tre dựng ở góc gian thờ, buộc nắm bông lúa vào phên thờ. Vừa thay mới bàn thờ, ông chủ nhà vừa khấn Tổ tiên xin được thay mới và mời Tổ tiên về nhận lễ vật, cầu mong mùa màng bội thu, làm ăn phát đạt. Bên ngoài và khu vực gian bếp, các thành viên khác trong gia đình chuẩn bị thực phẩm, lễ vật, chế biến thức ăn để chiều bày cơm cúng Tổ tiên.

Buổi chiều, gia đình làm lễ cúng Tổ tiên, thực hiện tại nhà trước. Mâm cúng bày lễ vật là rau, củ, quả trên nương, cá hấp hay nướng, sâu măng, dế mèn rang, thịt lợn, thịt gà, măng, cơm tẻ và cơm nếp; chén, thìa, đũa để quanh mâm. Ông chủ nhà cầm hai chai rượu vào ngồi trước mâm, cúng mời Tổ tiên về chứng kiến các món ăn, rửa tay và ăn cơm mới, năm tới phù hộ cho con cháu trong gia đình khỏe mạnh, gặp nhiều may mắn, dụng cụ lao động sản xuất luôn được việc, mùa màng tốt tươi, kinh tế phát triển. Chủ nhà cúng mời Tổ tiên ăn từng món, miệng khấn, tay véo chút thức ăn của từng món để gọn vào một góc mâm, rót rượu mời ra từng chén.

Chủ nhà khấn mời Tổ tiên ăn cơm mới xong, nắm một chút xôi ném ra sàn nhà và véo một chút xôi dán lên giữa cửa chính để mong muốn sang năm mới, mùa vụ mới gia đình sẽ có của cải, thóc lúa đầy nhà, ra đến tận cửa. Tiếp đó, ông lấy một ít lá chuối cho tất cả những viên thức ăn để ở mâm cúng cùng dế mèn, măng, rau củ quả trên mâm, mỗi thứ một ít, gói lại rồi buộc vào phên thờ - sát cạnh bó lúa mới tại Khlọ hoóc.

Hoàn thành nghi lễ cúng, mâm cúng được bê ra, chủ nhà và người có uy tín trong dòng họ được mời vào ăn ở mâm cúng này.

Kết thúc nghi lễ trong nhà, bà chủ nhà sẽ thực hiện nghi lễ cúng Tổ tiên bên Ngoại ở lán thờ ngoài vườn. Bà cùng con cháu trong nhà cũng đã chuẩn bị thức ăn cho vào mâm đem ra lán thờ (được đan bằng tre và lót hết một lượt bằng lá chuối). Mâm cúng Tổ tiên bên Ngoại gồm: 4 đôi đũa đặt ở 4 góc mâm (chỉ cúng ông, bà, bố, mẹ bên vợ), 2 miếng dưa, đĩa măng, thịt, nắm cơm cốm, nắm cơm nếp, rau củ quả trồng trên nương. Bà chủ ngồi trước ban thờ khấn mời Tổ tiên về ăn cơm mới, phù hộ cho con cháu khỏe mạnh, may mắn, mùa màng bội thu. Bà chủ cũng mời Tổ tiên ăn từng món, mời món nào thì lấy một ít ra đặt xuống mâm. Cuối cùng, bà chủ lấy lá chuối gói thức ăn mời tổ tiên buộc lên mái nhà Iêng hó và đem mâm thức ăn vừa cúng vào nhà cho con cháu ăn.

Sau nghi lễ, gia đình và khách mời cùng sum vầy bên mâm cơm, uống rượu, gửi tới nhau những lời chúc mừng tốt đẹp. Kết thúc lễ Mừng cơm mới cũng là kết thúc một năm cũ, khép lại một chu trình lao động sản xuất và mở ra một năm mới, mùa vụ mới với nhiều điều ước mới của người Xinh Mun, hướng về những điều tốt đẹp, thuận lợi và may mắn.

Lễ Mừng cơm mới của người Xinh Mun thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Họ luôn biết ơn và tưởng nhớ tới những người có công sinh thành, dưỡng dục con cháu và truyền đạt những tri thức, kinh nghiệm trong lao động sản xuất, đặc biệt là kỹ thuật làm nương theo mùa vụ. Lễ Mừng cơm mới là dịp con cháu dâng lên Tổ tiên các món ăn truyền thống, mời Tổ tiên ăn cơm mới và cầu mong họ phù hộ cho các thành viên trong gia đình khỏe mạnh, cầu cho mùa màng bội thu. Lễ mừng cơm mới bảo lưu các món ăn truyền thống của dân tộc, thể hiện tri thức dân gian về ẩm thực của người Xinh Mun trong việc khai thác thức ăn trong tự nhiên phục vụ đời sống hàng ngày. Lễ Mừng cơm mới là dịp để các thành viên gia đình, dòng họ quây quần bên nhau mừng thành quả lao động sau một mùa vụ vất vả; là dịp để ông bà, cha mẹ dạy bảo con cháu biết quý trọng sức lao động, đặc biệt là duy trì truyền thống thờ cúng Tổ tiên của tộc người Xinh Mun, là dịp giúp gia đình, dòng họ đoàn kết, gắn bó với nhau hơn.

Với giá trị tiêu biểu, Lễ Mừng cơm mới của người Xinh Mun được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 64/QĐ-BVHTTDL ngày 12/01/2022./.

 

http://dsvh.gov.vn/le-mung-com-moi-cua-nguoi-xinh-mun-tinh-dien-bien-tinh-lao-cai-3447








 

LỄ HỘI CẦU MƯA, TỈNH HƯNG YÊN

 

Lễ hội Cầu mưa (còn gọi là Lễ hội Tứ Pháp), ở xã Lạc Hồng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, gắn liền với tín ngưỡng thờ Tứ Pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện) của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước, thể hiện ước muốn cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt.

C:\Users\SPRING\Desktop\ảnh vhtt\tải xuống.jfif

 

Truyền thuyết về Tứ Pháp tại xã Lạc Hồng ngày nay cơ bản có nội dung theo giống truyền thuyết Tứ Pháp ở vùng Dâu - Bắc Ninh. Ngoài ra, còn có dị bản về việc người vùng dâu chặt cành lớn của cây Dung Thụ làm bốn đoạn đem bán. Người tổng Thái Lạc mua được ba đoạn, chờ buổi chiều mua nốt đoạn còn lại, buổi trưa mọi người thử đòn nào ngờ cả đòn khiêng và khúc gỗ vụt bay theo đoàn người đi trước. Thấy vậy, người dân Luy Lâu đuổi theo đòi lại. Nhưng đoàn người đuổi theo đến đâu thì trời đổ mưa tới đó nên người vùng Dâu để cho người tổng Thái Lạc mang về. Người dân Thái Lạc đã thuê ông Đào Khảm và Đào Lượng lấy bốn đoạn cành dâu tạc thành bốn pho tượng mẫu nhỏ. Ban ngày, các ông tạc tượng tại chùa Thái Lạc, ban đêm lại về ngủ tại chùa Un (nay thuộc xã Đình Dù, huyện Văn Lâm), do vậy, trong lễ hội xưa khi rước bốn bà đi tuần du quanh tổng bao giờ cũng phải ngự tại chùa Un một đêm. Đến thời Mạc, dựa vào mẫu tượng này, dân làng dùng gỗ mít tạc thành bốn pho tượng Tứ Pháp còn thờ đến ngày nay. Tượng Pháp Vân thờ ở chùa Thái Lạc (Pháp Vân tự), tượng Pháp Vũ thờ ở chùa Hồng Cầu (Pháp Vũ tự), tượng Pháp Lôi thờ ở chùa Nhạc Miếu (Pháp Lôi tự), tượng Pháp Điện thờ ở chùa Phạm Thái (Pháp Điện thiền tự). Trong dân gian vẫn gọi bốn bà lần lượt là bà Cả, bà Quê, bà Huế và bà Tông. Vào những năm hạn hán kéo dài dân các làng thuộc tổng Thái Lạc xưa lại tiến hành làm lễ cầu đảo và rước Tứ Pháp cộng đồng để cầu cho mưa xuống, mùa màng tươi tốt.

Lễ hội Cầu mưa xưa kia được diễn ra trong phạm vi rộng lớn bao gồm cả tổng Thái Lạc. Thời gian tổ chức lễ hội không cố định theo chu kỳ mà chủ yếu phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội. Lễ hội Cầu mưa xã Lạc Hồng được tổ chức đến năm 1943 thì bị gián đoạn do chiến tranh và nhiều nguyên nhân khác, đến năm 2005, được khôi phục theo đúng trình tự, nghi thức xưa. Tuy nhiên, sau khi được khôi phục lễ hội diễn ra chủ yếu tại các ngôi chùa thờ Tứ Pháp thuộc địa bàn xã Lạc Hồng, trung tâm là chùa Thái Lạc (Pháp Vân tự). tổ chức từ ngày mồng 6 đến mồng 8 tháng 3 (Âm lịch) hằng năm. Trong lễ hội có tổ chức rước kiệu Tứ Pháp cùng các trò chơi dân gian.

Trước khi diễn ra lễ hội, các ngôi chùa thờ Tứ Pháp được nhà chùa và nhân dân trong làng dọn dẹp, trang hoàng lộng lẫy, các kiệu rước được sửa soạn, lắp ghép. Người dân lựa chọn giai kiệu là những chàng trai khỏe mạnh, gia đình không vướng bụi đi rước kiệu, giai kiệu cởi trần, đóng khố được đan từ sợi dây thừng, gắn vải, hoa cúc chì, cườm... (lựa chọn, phân công người tham gia vào các công việc như: cầm cờ, chấp sự, giai cờ, giai trống, giai chiêng...)

Sáng mùng 5, bốn ngôi chùa thờ Tứ Pháp trong xã Lạc Hồng làm lễ mở cửa chùa và lễ hạ bệ tượng. Sau đó làm lễ mộc dục và phong y để hôm sau tham gia rước hội: các sư trụ trì dùng nước, nước ngũ vị hương, lau bằng khăn sạch lên tượng các vị thần Tứ Pháp. Áo của các vị thần Tứ Pháp sau khi phong y được cắt thành các miếng nhỏ chia cho dân làng và du khách dự hội lấy khước. Buổi tối, các lão bà cùng sư trụ trì các chùa thờ Tứ Pháp tụng kinh, kể hạnh, cầu cho mưa thuận, gió hòa. Các đội rước kiệu, đội kèn trống tập dượt; chuẩn bị sân để đánh Trăng. Riêng thôn Hồng Thái phải dựng sẵn ba gian nhà lá trước cửa chùa Pháp Điện để rước 3 Bà đến ngự một đêm. Xưa kia, lễ mở cửa chùa được tiến hành liên tục trong 3 ngày, sau đó đóng cửa 3 ngày, làm 3 lần như vậy tổng cộng là 18 ngày. Nếu trời không mưa mới tiến hành làm lễ rước cầu mưa.

Chiều mùng 5, nhân dân tổ chức tế lễ tại chùa. Tham gia tế lễ là những đội tế nữ tại bốn ngôi chùa thờ Tứ Pháp trong xã.

Sáng mùng 6, tại chùa Nhạc Miếu, sau khi lễ Phật, đoàn rước khởi kiệu bắt đầu rước tượng bà Pháp Lôi xuống chùa Thái Lạc. Đi đầu đoàn rước là đội dẹp đường, tiếp đến là đội cờ, phường bát âm, bát bửu, hương án, người cầm cờ lệnh, kiệu bà Pháp Lôi. Đi hai bên hương án và kiệu bà Pháp Lôi là những người cầm tàn quạt và lọng che. Trong quá trình rước, có lúc kiệu bà Pháp Lôi phải chạy. Khi chạy thì kêu “Huế! Huế! Huế!” (tên dân gian của bà Pháp Lôi), khi cờ reo xướng thì giai kiệu hô.

Đoàn rước đến chùa Hồng Cầu, lúc này kiệu bà Pháp Vũ cũng đã chuẩn bị xong nhưng chưa ra khỏi chùa, kiệu bà Pháp Lôi phải lùi lại để chờ kiệu bà Pháp Vũ ra, sau đó hai bà làm lễ chào nhau (thường gọi là lễ hạ thủ). Nghi thức này được tiến hành qua ba lần chào nhau. Khi chào nhau các giai kiệu cùng nhau nhún chân. Tiếp đến, đoàn khởi kiệu rước hai bà xuống chùa Thái Lạc. Kiệu bà Pháp Vũ đi trước, kiệu bà Pháp Lôi đi sau. Thứ tự đoàn rước giống như đoàn rước bà Pháp Lôi. Trong khi rước mỗi khi có trống lệnh Cờ Reo xướng, giai kiệu lại hô. Các câu xướng của cờ reo thường liên quan đến việc cầu mưa. Kiệu hai bà đi qua đình Thái Lạc (cạnh chùa Thái Lạc) thì dừng lại làm lễ chào Thánh trước cổng đình.                

Khi đoàn rước đến gần chùa Thái Lạc, kiệu Pháp Lôi chạy thẳng xuống cổng chùa Thái Lạc. Xưa kia, khi kiệu Pháp Lôi chạy xuống chùa Thái Lạc thường vượt qua tường vào trong chùa (tường chỉ là tượng trưng, được đắp bằng đất trước cửa chùa cao khoảng 1m phủ cỏ lên trên). Khi không thấy kiệu bà Pháp Vũ đâu thì lùi lại, chờ kiệu bà Pháp Vũ tới. Hai kiệu vào đến sân chùa, dân làng thôn Quang Trung cũng bắt đầu rước kiệu bà Pháp Vân ra cửa chùa. Ba bà làm lễ chào nhau, kiệu Pháp Vũ chào trước, kiệu Pháp Lôi chào sau, cuối cùng là kiệu bà Pháp Vân chào lại. Sau lễ chào, kiệu Pháp Vân lùi vào trong gian giữa chùa, kiệu Pháp Vũ ở gian phía Đông, kiệu Pháp Lôi ở gian bên Tây. Khi ba kiệu chuẩn bị yên vị, cờ reo lại xướng, giai kiệu hô. 

Ba bà công đồng ngự yên vị tại chùa Pháp Vân một đêm. Khi ba bà ngự yên vị tại chùa Pháp Vân, cộng đồng làm lễ khai hội. Buổi chiều, các giai kiệu và người dự hội tập trung tại sân Ủy ban nhân dân xã tham dự trò đánh Trăng (Giăng). Xưa kia, địa điểm đánh Trăng diễn ra trên các bãi đất rộng, gần khu vực đoàn rước đi qua. Trò đánh Trăng kéo dài khoảng 1 tiếng rồi nghỉ, tham gia chủ yếu là các giai kiệu và thanh niên trai tráng trong toàn xã. Thông thường mỗi lần đánh có khoảng 50 - 60 người tham gia. Ngoài ra còn có đội cờ, đội trống đứng cổ vũ. Trên khu đất rộng, Tiểu cổ mặc áo dài đỏ, đầu đội khăn đỏ, tay cầm trống khẩu đi trước. Một giai kiệu khoẻ mạnh, có giọng âm vang đi theo sau, tay cầm một lá cờ đỏ để ra hiệu và reo. Khi có hiệu lệnh, các giai kiệu đóng khố xếp hàng vòng tròn lần lượt chạy theo Tiểu cổ và Cờ reo. Cả đoàn chạy theo vòng xoáy chôn ốc theo chiều kim đồng hồ, sau đó quay ngược trở ra với quan niệm đây là vòng xoay vũ trụ, sự vần vũ của mây, mưa, sấm, chớp. Cứ như vậy, đi đủ ba vòng thì kết thúc một lần đánh Trăng. Trong khi đánh Trăng, Cờ reo xướng, giai kiệu hô. Trò đánh Trăng thể hiện tín ngưỡng cầu nước, cầu mưa và tục thờ mặt trời của cư dân nông nghiệp, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu.

 Trong thời gian này, các cụ lão bà và nhân dân địa phương tụng kinh và lễ Phật tại các chùa thờ Tứ Pháp trên địa bàn xã.

Mùng 7, trước khi rước ba Bà (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi) xuống chùa Pháp Điện, dân làng làm lễ rước rồng lấy nước tại giếng cổ ở thôn Bình Minh. Bệ rồng được làm bằng gỗ, trên là chín con rồng (hai con to và bảy con nhỏ làm bằng thạch cao sơn màu đen. Mặt bệ được ghép liền kích thước vuông, bốn chân bằng tre để tròn, rồng được bện bằng rơm, bên ngoài đắp bùn. Người tham gia lễ rước rồng tập trung tại chùa Thái Lạc từ sáng sớm, gồm: 4 giai kiệu rước rồng; 8 người vác gầu múc nước làm bằng bẹ mo cau già, có cán tre dài; 4 giai rước kiệu chóe nước; đội cờ, phường bát âm, chiêng trống,… Sau khi làm lễ tại chùa Thái Lạc, đoàn rước khởi hành rước rồng ra giếng cổ làm lễ lấy nước rước về chùa Thái Lạc. Đi đầu đoàn rước là rồng dẫn đường, phường bát âm, đội cờ, hương án, bệ rồng, đi hai bên là đội cầm gầu múc nước (chạ long vương), kiệu chóe nước, theo sau là dân làng. Đoàn rước tới giếng, nhà sư làm lễ xin nước, dùng gáo dừa sơn đỏ có cán gỗ để múc nước vào một chiếc chum sành, sau đó mới đổ vào trong chóe. Trong khi đó, bên ngoài tiếng trống, tiếng chiêng, hòa cùng với các bản tấu nhạc của phường bát âm tạo không khí âm vang. Bên trong các già tiếp tục đọc kinh, kể hạnh. Khi múc xong, những người cầm gầu lần lượt múc nước từ giếng vảy ra xung quanh, miệng hô “Mưa! Mưa! Mưa!”. Sau khi lấy nước xong đoàn rước lại tiếp tục theo cung đường cũ quay trở về chùa Thái Lạc. Số nước lấy tại giếng cổ được chia thành ba phần đặt lên ban thờ ba Bà: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi. Khi mọi thủ tục hoàn tất, lễ rước ba Bà xuống chùa Pháp Điện mới được tiến hành.

Từ chùa Thái Lạc, thứ tự đoàn rước như sau: Đầu tiên là đoàn rước bà Pháp Vân với rồng dẫn đường, phường bát âm, đội cờ (gồm cờ Thần, cờ Phật, cờ Tổ quốc), đội cầm gầu múc nước, trống cái, trống khẩu, cờ reo, hương án, kiệu bà Pháp Vân. Đi hai bên hương án và kiệu bà Pháp Vân là những người cầm tàn, lọng, quạt vả. Phía sau là các cụ hai giới, cùng dân làng và du khách thập phương tham gia đám rước. Tiếp đến là đoàn rước kiệu bà Pháp Vũ và kiệu bà Pháp Lôi, thứ tự đoàn rước được sắp xếp giống như đoàn rước bà Pháp Vân. Trên đường đi gặp những chỗ có nước, những người cầm gầu múc nước vảy lên làm phép, miệng hô “Mưa, Mưa, Mưa”. Trong quá trình rước, dưới sự điều khiển của người cầm cờ lệnh, cờ reo xướng, giai kiệu hô.          

Đoàn rước đến khu vực gần đường 5, kiệu bà Pháp Lôi chạy vượt qua tiến vào gần cổng chùa Pháp Điện, rồi lùi ra đứng chờ hai kiệu sau. Khi các kiệu đến đủ, chị em làm lễ chào nhau, các giai kiệu chạy và nhún chân. Kiệu bà Pháp Điện không ra khỏi chùa mà chỉ được rước bà ra cửa chùa chào rồi lùi lại (vì nhân dân nơi đây quan niệm rằng nếu bà Pháp Điện ra khỏi cổng Tam quan chùa, nhìn vào làng nào thì làng ấy sẽ có hoả hoạn). Ba chị đến thăm phải ngự ở ngoài chùa vọng vào tại ba gian nhà lợp lá, người dân thôn Hồng Thái đã dựng trước cửa chùa Pháp Điện để khi ba Bà đến ngự ở đó một đêm.

Buổi chiều tổ chức giao lưu thi đấu thể thao: cầu lông, bóng chuyền nam và nữ. Buổi tối, dân làng và các lão bà lại tập trung tại các ngôi chùa thờ Tứ Pháp trong xã cúng lễ, đọc kinh, kệ, kể hạnh. Sân chùa là nơi giao lưu, biểu diễn văn nghệ giữa các xóm trong làng, thu hút đông đảo nhân dân và du khách thập phương.

Sáng mùng 8, các nhà sư làm lễ, kiệu ba Bà Pháp Vân, Pháp Vũ và Pháp Lôi được rước vào cửa chùa Pháp Điện, bốn Bà làm lễ chào nhau trong tiếng xướng của cờ reo và tiếng hô của giai kiệu. Sau nghi thức chào nhau, kiệu ba Bà được rước hoàn cung. Đoàn rước về đến cửa chùa Thái Lạc, kiệu bà Pháp Vân được rước vào chùa Thái Lạc, hai kiệu bà Pháp Vũ và Pháp Lôi đứng ngoài cổng chùa, làm lễ chào bà Pháp Vân, rồi rước trở về các chùa hoàn cung. Nghi lễ chào nhau được thực hiện giống như tại cửa chùa Pháp Điện. Về gần đến chùa của mình, các kiệu phải quay lưng đi trước để khi vào chùa không phải quay mặt tượng. Khi các bà về hoàn cung, lúc đó hội cũng coi như kết thúc. Buổi chiều, các chùa làm lễ kê chân nhang và yên vị Tứ Pháp.

Lễ hội Cầu mưa cùng với tín ngưỡng thờ Tứ Pháp ở vùng châu thổ sông Hồng phản ánh quá trình du nhập, phát triển của Phật giáo vào Việt Nam và quá trình khai phá vùng đất này. Tín ngưỡng thờ Tứ Pháp từ vùng Luy Lâu, Bắc Ninh đã lan tỏa ra các vùng phụ cận, trong đó có Hưng Yên. Lễ hội Cầu mưa là một bằng chứng phản ánh sự dung hòa giữa việc thờ Phật, với việc tôn thờ các vị Thần bảo hộ các cộng đồng làng xã trong vùng (qua việc Tứ Pháp trên đường tuần nhiễu đã dừng lại tại cửa đình làng để bái vọng Thành hoàng làng của làng mà đoàn rước đi qua). Lễ hội cũng phần nào phản ánh tập quán sử dụng nước của cư dân trong sản xuất nông nghiệp, dẫn thủy nhập điền. Thông qua các nghi lễ, nghi thức và các trò diễn xướng trong lễ hội, con người muốn tái hiện lại lịch sử, xã hội, cội nguồn của tự nhiên và con người. Lễ hội Cầu mưa là nơi cố kết cộng đồng, là sợi dây gắn kết các cá nhân, gia đình, dòng họ, làng xóm; biểu dương những giá trị văn hóa và sức mạnh của cộng đồng, tạo nên tính cố kết bền chặt của cư dân địa phương. Lễ hội Cầu mưa nhằm khẳng định nguồn gốc cộng đồng làng xã và bản sắc văn hóa của người dân trong xã; tỏ lòng thành kính và ghi nhớ công lao che chở, phù hộ dân làng của các vị Thần được thờ; góp phần giáo dục truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”… Lễ hội cầu mưa góp phần cân bằng đời sống tâm linh, thỏa mãn nhu cầu tinh thần của cá nhân, cộng đồng; cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt; bảo lưu và trao truyền các giá trị văn hóa của cộng đồng từ thế hệ này sang thế hệ khác.  

Với giá trị tiêu biểu, Lễ hội cầu mưa được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia tại Quyết định số 68/QĐ-BVHTTDL ngày 12/01/2022./.

http://dsvh.gov.vn/le-hoi-cau-mua-tinh-hung-yen-3448


NGHỀ QUỲ VÀNG, BẠC KIÊU KỴ

Nghề quỳ vàng bạc (làng Kiêu Kỵ, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội) xuất hiện cách đây khoảng trên 400 năm, thời Hậu Lê. Tổ nghề là ông Nguyễn Quý Trị, khi đi sứ Trung Quốc học được nghề dát đập vàng bạc để sơn thếp vàng câu đối, hoành phi, tượng… về nước, chỉ truyền nghề cho dân làng Kiêu Kỵ. Tương truyền, sau khi truyền nghề quỳ vàng bạc cho dân làng, ngày 17 tháng Tám Âm lịch, Ôngng bỏ đi, không rõ tung tích. Từ đó, để tưởng nhớ tới công ơn của ông, dân làng Kiêu Kỵ đã suy tôn Nguyễn Quý Trị là Tổ nghề quỳ vàng bạc và lấy ngày ông ra đi làm ngày cúng giỗ Tổ nghề hàng năm.

C:\Users\SPRING\Desktop\ảnh vhtt\vna_potal_1010_nam_thang_long__ha_noi_nghe_dat_quy_vang_kieu_ky__lang_nghe_co_mot_khong_hai_o_viet_nam_084910582_5050943.jpg

Tại nơi cột cái của nhà Tràng, làng Kiêu Kỵ, ông Nguyễn Quốc Trị đã đóng lên cột một cái đinh loại răng bừa dài 15cm và thề rằng “Không ai được truyền ra ngoài”. Sau đó, Tràng trở thành nơi thờ cúng Tổ nghề, nơi truyền dạy nghề cho thế hệ kế cận. Một tục lệ khác đặc biệt của làng là người dân trong làng ai muốn học nghề quỳ vàng đều phải làm lễ khấn Tổ nghề. Nếu ai không làm lễ khấn ngài thì khi đập quỳ sẽ đập vào tay và người ta cho rằng đây là ngài có ý quở trách kẻ đó vô lễ, không cho theo nghề này. Người lạ ở địa phương khác đến xin việc ít khi được chủ cơ sở quỳ vàng chấp nhận do khó kiểm soát việc thất thoát vàng.

Ngày 11 - 12 tháng Giêng, các gia đình làm nghề làm lễ khai Tràng, dâng lễ vật, cầu mong Tổ nghề phù hộ cho gia đình trước khi bắt tay vào sản xuất của một năm mới. Lễ giỗ được dân làng tổ chức vào ngày 17 tháng Tám để bày tỏ lòng tôn kính, ghi nhớ công ơn Tổ nghề.

Nghề quỳ vàng bạc Kiêu Kỵ đòi hỏi sự công phu, kiên trì và khéo léo của người thợ. Để có quỳ thành phẩm cần trải qua nhiều công đoạn, đều cần sự tỉ mỉ, yêu cầu cao về kỹ thuật, đòi hỏi sự cảm nhận chính xác của con người mà không máy móc nào thay thế được. Từ việc xây lò kín và thấp, dùng mùn cưa trộn với nhựa thông, viên nhỏ đốt dưới chiếc nồi ang để tạo bồ hóng, làm mực “lướt” quỳ, vàng phải đập mỏng đều, không rách, người thợ phải tập trung cao độ. Người thợ dát vàng quỳ ở Kiêu Kỵ, chỉ cần 1 chỉ vàng có thể đập mỏng thành 980 lá có diện tích lớn hơn 1m2, hiện chưa có máy móc nào làm được.

Quy trình sản xuất dát vàng bạc trải qua 3 khâu chính: làm quỳ mới, đập diệp và làm quỳ cũ sau đó mới thếp lên sản phẩm Để có một vàng quỳ, người thợ phải đập khoảng 1 giờ đồng hồ liên tục, tính ra phải đập trên 400 nhát búa cho một quỳ vàng. Ở giai đoạn cuối, khi gỡ vàng, người thợ phải làm việc trong phòng kín, đeo khẩu trang và ngồi ở trong màn, vì chỉ cần vô ý thở mạnh vàng sẽ bị bay. Dát vàng bạc quỳ lên sản phẩm người thợ dùng chiếc bay rất mỏng bằng xương hoặc bằng mảng tre vát mỏng để dát vàng lên các sản phẩm; họa sỹ dùng bút vẽ với dầu sơn chấm vào vàng quỳ để vẽ lên tranh sơn mài.

- Về nguyên liệu: là vàng, bạc nguyên chất. Nếu vàng, bạc xấu phải chuyên lại để lọc bỏ tạp chất và làm cho vàng sáng. Cách chuyên thủ công: dùng lá đề, vôi bột, đất sét nặn thành nồi. Sau đó, cho vàng/bạc, diêm sinh, muối ăn vào nồi dùng than hoa đun nhỏ lửa để lọc, trên nồi có đặt than xoan để hút các chất bẩn. Ngày nay, với công nghệ phát triển người Kiêu Kỵ chỉ cần đặt mua vàng/bạc là được.

Keo da trâu: Da trâu (đã loại bỏ hết chất mỡ) đun với nước sạch khoảng 48 giờ liên tục. Khi nước gần cạn, đun nhỏ lửa đến lúc da nhừ có màu vàng vàng sẽ bỏ ra lọc rồi phơi trên lá chuối. Trời nắng đẹp thì keo mới tốt và làm mực mới đẹp. Trung bình 1kg da trâu khô thường nấu thành 0,3kg keo. Trước đây, người Kiêu Kỵ thường mua da trâu tươi về để làm, nhưng hiện nay họ mua da trâu khô về nấu keo hoặc mua keo làm sẵn ở phố Hàng Hòm.

Mực: Các gia đình tự nấu mực, không được mua mực tàu vì khi làm lướt mực tàu trên lá giống vàng sẽ không giãn ra được. Mực được làm từ việc trộn các nhựa thông, bồ hóng, mùn cưa theo tỷ lệ nhất định (bí kíp riêng của các gia đình làm nghề), sau đó đun lên để tạo thành mực.

- Dụng cụ làm vàng, bạc quỳ gồm: búa đánh quỳ (được chỉnh sửa mặt búa có độ vát 15 độ), đá kê; kéo; cối đá, chày giã mực; miếng đá nhỏ hình thang nghiêng 35 độ, dùng để lướt (hay bôi) mực vào lá giống hay lá vỡ; đai buộc quỳ bằng loại vải dày như vải ka ki; cái bay mỏng dùng để chại bạc hay chại vỡ hoặc bay để lấy quỳ ra xếp thành xấp quỳ; lá vả dùng để phơi khô các lá giống khi lướt mực xong.

- Các bước làm vàng, bạc quỳ

+ Làm lá giống

Lá giống được làm từ giấy dó, được pha thành miếng vuông nhỏ có kích thước 5cm (xưa kia người ta pha giấy ra hình chữ nhật). Xếp thành từng xấp dày 500 lá quỳ; mỗi xấp giấy như vậy sẽ làm thành một quỳ vàng, hay một quỳ bạc về sau. Sau đó, đưa các buộc giấy dó đi ngâm nước và ép khô. Sau đó, giấy được đem đập 5 lần, bóc 5 lần, cụ thể: bóc ướt, nấm giai, thâm tím, bong chập, bóc cải và cải giấy.

Sau khi đập và lướt giấy bản xong, người thợ tiến hành ngay việc lướt mực vào làm giấy giống để đập quỳ. Người thợ đem các xấp giấy đã qua 5 lần lướt nước và đập khô, rồi dùng chổi nhỏ lướt mực tàu lên hai mặt của từng tờ giấy bản đặt trên bề mặt của hòn đá hình thang nghiêng 35 độ, sau đó phơi lên lá vả (vì lá vả có các tơ mịn, khi bóc giấy ra sẽ không bị bay mực) để nơi thoáng cho khô. Khi giấy đã khô thì chỉ việc cầm cả chồng lá vả rũ mạnh là các tờ giấy bong ra hết.

Những tờ giấy này lại được xếp vào thành từng quỳ 500 tờ, rồi lấy đai buộc chặt lại và tiến hành đập một hồi lâu. Sau đó quy trình lại lặp lại như trên tất cả là 3 lần mới được giấy quỳ giống để cho miếng dòng vàng hay bạc vào đánh thành quỳ ở cung đoạn sau. Công đoạn làm lá giống là công đoạn quan trọng nhất, quyết định đến chất lượng của việc dát mỏng vàng bạc sau này. Lá giống đạt tiêu chuẩn phải đủ độ dai để không bị rách, nhưng lại không được phai màu keo lẫn vào mới vàng, nhất là phải khô để miếng vàng không bị dính vào lá giống. Một điều cần lưu ý khi lướt và đập giấy quỳ thì phải loại bỏ những tờ giấy bị rách nát ra, nếu không lúc cho vàng bạc vào đánh quỳ sẽ bị vỡ vụn, hoặc dàn mỏng không đều làm ảnh hưởng đến chất lượng của quỳ.

+ Làm quỳ cũ

Pha giấy khấu làm lá quỳ vỡ: Giấy khấu cũng làm từ vỏ cây dó nhưng dầy hơn giấy bản, giống như giấy xi măng. Giấy khấu mua về được pha ra thành miếng kích thước 7cm2. Đây là miếng giấy dùng để cho các miếng diệp vàng hay bạc vào đánh vỡ. Pha giấy xong xếp lại thành từng xấp dày từ 200 đến 300 lá vỡ, và mỗi xấp giấy này được gọi là một vỡ. (Số lượng lá vỡ trong một vỡ tuỳ thuộc vào việc làm quỳ vàng, quỳ bạc cựu hay quỳ bạc tân).

Lướt mực và đập giấy quỳ vỡ: Sau khi pha giấy vỡ xong thì đem các lá quỳ vỡ này cho vào nồi luộc kĩ, và vớt ra cho vào bàn ép khô, rồi đập cải. Tiếp đến phải gỡ bong ra từng lá, rồi lướt mực lên các lá vỡ tương tự như lướt lá quỳ và phơi khô trên lá vả, tạo cho các lá vỡ có độ đen nhẵn bóng là được. Công đoạn này người trong nghề gọi là làm quỳ mới hay quỳ dòng.

+ Cán vàng/bạc (cắt điệp) - xếp nhân - Quỳ vỡ - cắt dòng

Cán vàng/bạc: Pha chế vàng, bạc rồi cho vào nồi (làm bằng đất sét to hơn ngón chân cái) nấu trên bếp lò có bễ kéo bằng tay cho chảy ra; rồi đổ ra rãnh nhỏ bằng nửa chiếc đũa, thành thỏi dài 10cm. Xưa kia người ta thường làm quỳ vàng bằng vàng nguyên chất nên phải có công thức pha chế là 1 chỉ vàng + 1/10 chỉ bạc thành vàng trên 85% để đánh quỳ mới dẻo, không bị vỡ vụn. Còn bạc nguyên chất thì không cần pha chế. Tiếp theo, đem thỏi vàng hay bạc để lên đe, lấy búa đập cán dài ra. Theo kinh nghiệm của các cụ cao niên trong nghề quỳ vàng bạc thì 1 chỉ vàng (hay 1 chỉ bạc) cán dài được 2m là vừa đẹp.

Cắt dòng: Cắt sợi vàng (bạc) ra thành từng đoạn nhỏ bằng móng tay (khoảng 1cm2) gọi là diệp.

Quỳ vỡ: Những miếng diệp được xếp giữa 2 lớp lá giống, 50 miếng lá giống vuông sẽ kèm 49 diệp vàng nhỏ.

Đánh vỡ và cắt dòng: Đặt những miếng diệp đó vào giữa các lá vỡ, rồi buộc thành từng vỡ và xếp hết lượt vào lồng cho lên bếp lò sấy một đêm. Sau đó bít đai chặt lại, người thợ cầm búa sắt (nặng khoảng 5kg) gõ nhịp nhàng vào giữa thếp lá giống kẹp vàng trên một hòn đe bằng đá xanh nguyên khối, một tay gõ, tay kia đồng thời xoay đều thếp lá giống. Thao tác này trong nghề quỳ vàng gọi là đánh. Sau khoảng 40 phút miếng diệp vàng nhỏ 1cm2 mỏng dàn kín 4 chiều cái vỡ là được (7 x 7cm). Sau khi đánh vỡ xong, đem gỡ miếng diệp vàng ra và dùng kéo cắt nhỏ thành 9 hay 12 miếng đều nhau.

Quỳ vỡ đã được cắt dòng, tiếp tục xếp 1 lá giấy, 1 lá dòng, gọi là nong quỳ.

+ Đánh quỳ: quỳ được xếp vào lồng và cho lên bếp lò sấy nóng trong 1 đêm. Sau đó, lấy từng quỳ ra buộc đai chặt, cho lên bàn đá dung búa tay đập đều đến khi miếng quỳ mỏng dính dàn đều ra 4 cạnh lá quỳ (5 x 5cm), không bị rách. Trung bình mỗi quỳ vàng hay quỳ bạc cựu phải đánh liên tục trong khoảng 1 tiếng để quỳ dừ. Ước tính 1 chỉ vàng hay 1 chỉ bạc cựu có thể dát mỏng ra được rộng gần 1m2.

+ Trại quỳ thu thành phẩm

Giấy bản mỏng nhẵn cả 2 mặt được cắt tương ứng với kích thước giấy quỳ, 5 x 5cm để trại quỳ. Giấy đã cắt được xếp và buộc từng bó 50 tờ. Sau đó, những người thợ khéo tay dùng chiếc bay nhỏ nhẹ nhàng gỡ các lá quỳ đã được đánh dừ ra, lần lượt nong vào giữa các miếng giấy bản, hết 1 quỳ thì niêm phong thành từng gói. Theo quy định của nghề, mỗi quỳ vàng hay quỳ bạc có 500 lá quỳ và được bó lại thành 10 buộc. Một chỉ vàng hay bạc đánh được 22 buộc = 2,2 quỳ.

Quy trình làm quỳ vàng, bạc được tiến hành theo trình tự rất nghiêm ngặt, không được làm lẫn lộn khâu sau lên khâu trước và không được làm tắt hay ăn bớt bỏ một khâu nào. Chỉ khâu nấu keo da trâu, khâu giã mực, khâu cán vàng bạc và khâu đánh quỳ là được làm ở chỗ mát thông thoáng; các khâu khác đều phải làm trong nhà che kín gió. Đặc biệt, khâu cuối cùng thu hồi sản phẩm người làm phải xoa phấn rôm vào tay cho khỏi dính quỳ để không bị hao hụt nguyên liệu và sản phẩm. Theo các cụ cao niên có nhiều thâm niên trong nghề quỳ vàng bạc thì khâu làm giấy giống và giấy vỡ là khâu quan trọng nhất có tính quyết định đến chất lượng của sản phẩm.

Nghề quỳ vàng bạc là kết tinh sự sáng tạo của người dân Kiêu Kỵ qua nhiều thế hệ. Mỗi sản phẩm dát vàng quỳ thể hiện tri thức, kỹ năng, độ tinh xảo và dấu ấn của người làm nghề bởi nó hoàn toàn được làm thủ công. Kỹ thuật dát vàng, bạc quỳ thỏa mãn những đòi hỏi khắt khe trong việc trang hoàng, tô điểm cho các công trình văn hoá tâm linh. Quá trình làm nghề với nhiều công đoạn chuyên sâu đã tạo nên tính cố kết cộng đồng. Qua bao đời, nghề quỳ vàng bạc được cha truyền con nối, hình thành nên trong công đồng ý thức về sự kế tục, trân quý nghề, tôn kính và biết ơn cụ Tổ đã truyền nghề cho dân làng. Thực hành và trao truyền nghề cho các thế hệ kế cận là cách giáo dục người thợ, con cháu về tính thật thà, trung thực, giữ uy tín trong nghề bởi họ sử dụng kim loại quý để làm nghề. Nghề quỳ vàng bạc Kiêu Kỵ đã giải quyết hiệu quả vấn đề việc làm, mang lại thu nhập chủ yếu cho phần lớn hộ dân trong làng, tạo ra sự ổn định kinh tế - xã hội ở địa phương.

Với giá trị tiêu biểu, Nghề quỳ vàng bạc Kiêu Kỵ được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 826/QĐ-BVHTTDL ngày 09 tháng 3 năm 2021./.

 

http://dsvh.gov.vn/nghe-quy-vang-bac-kieu-ky-3419






























 

HÁT ADAY CỦA NGƯỜI KHMER

Hát ADay của người Khmer (xã Xà Phiên, huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang) là nghệ thuật trình diễn dân gian tổng hợp, theo lối hát “nói”. Nội dung của hát ADay là hát giao duyên, ca ngợi quê hương, cảnh vật, cổ vũ đạo đức ở đời, cầu mong sự an lành, hạnh phúc cho cộng đồng và gia đình.

 

C:\Users\SPRING\Desktop\ảnh vhtt\hataday195756856867.jpg

Nghệ thuật hát ADay ban đầu là loại hát Prop-kay (hát đối đáp) bên nam và bên nữ, cùng vỗ tay thành nhịp, rồi hát đối đáp qua lại. Sau hát ADay còn sử dụng các bài hát kịch, hoặc cổ tích (khi lan tỏa đến vùng đất Nam bộ thì không có loại này). Ngoài ra, hát ADay còn được sử dụng trong trò chơi Chol chhung (ném cầu) vào dịp lễ Chôl Chnăm Thmây. 

Trong quá trình phát triển, hình thức nghệ thuật này tiếp tục được sáng tạo qua 2 giai đoạn:

- Một số các nghệ sĩ tiền bối rút gọn lối hát Prop-kay thành loại “hát đối đáp nam, nữ”, được gọi là “Vông phlêng thum”.

- Đến cuối thế kỷ XIX, hình thức biểu diễn được người diễn sáng tạo thêm, phát triển lối hát với lời luôn mới, ứng tác ở mọi tình huống và hoàn cảnh. Người dân yêu thích lối hát và sự thân thiện với người biểu diễn đã đặt tên cho lối hát sáng tạo từ lối hát Prop-kay là “hát ADay”.

Hát ADay được truyền vào tỉnh Hậu Giang cùng với công cuộc khai hoang mở đất, lập phum, sóc (xóm dân cư) của bà con Khmer. Hát ADay được trình diễn trong các dịp lễ hội, dần dần hát góp vui trong các nghi lễ gia đình. Địa bàn huyện Long Mỹ xưa có hát ADay từ rất sớm, điển hình là ở chùa Pô Thi Vong Sa, tại xã Xà Phiên. Thời đó, hầu như trai gái trong cộng đồng đều biết hát ADay, với nhiều nhạc công, tác giả. Tại vùng đất thuộc thành phố Vị Thanh thời xưa, cộng đồng bà con dân tộc Khmer thuộc các xã Hỏa Lựu, Hỏa Tiến, Tân Tiến, Vị Tân… cũng có Đội văn nghệ, thường xuyên trình diễn hát ADay. Phía Bắc tỉnh Hậu Giang, giáp thành phố Cần Thơ tại các chùa vùng Tám Ngàn, Cái Tắc thuộc huyện Châu Thành, cũng có một số ít nghệ nhân biết hát ADay. Đến các phum, sóc với môi trường diễn xướng là những ngôi chùa; hát ADay được rút gọn, giản đơn, bỏ lối hát theo kịch.

- Lối hát, điệu múa, bài bản, âm nhạc:

 Hát ADay kết hợp một cách hài hòa, nhuần nhuyễn giữa các bộ môn: Âm nhạc, múa, văn thơ hợp thành một cung cách diễn xướng sinh động, giàu tính nghệ thuật dân gian. Người giữ vai trò thực hành chính đều phải biết hát và múa.

+ Lối hát: Hát ADay là lối hát nói, kỹ thuật đơn giản, không phức tạp, cầu kỳ; chỉ cần nhấn nhá, khi thể hiện trạng thái tình cảm (vui tươi, trêu ghẹo, châm chọc, giận hờn). Người hát - nói, giữ tiết tấu nhanh vừa. Để bắt đầu, dàn nhạc dạo nhạc, đôi trai gái múa chào mời. Người hát cất giọng, dứt câu và múa theo nhạc. Ngưng nhạc, người kia sẽ hát đáp lời và múa theo câu nhạc đệm xen kẽ. Tùy mức độ nội dung bài hát dài hay ngắn, cặp nam nữ sẽ liên tục hát đối đáp cho tới khi kết thúc tiết mục. Dù là lối hát nói giản đơn, tự do nhưng phải tuân thủ, hát đúng âm điệu, cất giọng khi lên xuống, lúc nhỏ to. Thông thường, mỗi câu hát có độ dài từ 30 - 40 giây, mỗi bài hát từ 5 - 10 phút, tùy theo chủ đề đưa ra. Từ lời bài hát, dàn nhạc đệm diễn tấu, làm nền để cặp nam nữ vừa hát vừa múa vờn theo nhau, như trêu ghẹo, giao duyên khiến tiết mục trở nên sinh động, tạo không khí vui tươi, hấp dẫn người xem.

 + Bài bản: Tiết mục hát ADay nào cũng phải dựa theo bài ca và bản nhạc (đệm). Tùy vào từng bối cảnh, lễ hội, nghi lễ gia đình hay sinh hoạt cộng đồng, mà hát ADay có thể sử dụng bài hát truyền thống hoặc viết lời mới, hay ứng tác tại chỗ. Các bài bản hiện có như cổ vũ đua ghe ngo, ca ngợi, chúc phúc trong nghi lễ gia đình; trong sinh hoạt cộng đồng có các bài ca nói về đạo đức, lối sống; nay có cả bài về xây dựng đời sống văn hóa, cổ vũ thanh niên tòng quân, chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Bài hát chỉ sáng tác phần lời để hát, không có giai điệu. Bởi ADay là một kiểu hát nói. Do vậy, trong soạn lời hay trong diễn xướng, người hát phải có khả năng ứng tác hoặc thêm bớt lời để đối đáp ăn ý nhưng vẫn tập trung, bám theo chủ đề, tình huống, hoàn cảnh tạo nên không khí phấn khởi, hấp dẫn, lôi cuốn người xem cổ vũ.

+ Âm nhạc là phần chủ lực trong hát ADay, bởi đây là giai điệu khung nền, dẫn dắt người hát và người múa theo nhịp điệu. Từ thời xưa, các bài nhạc đệm cho hát ADay, được chọn từ bản nhạc đệm của lối hát đối đáp hay tuồng tích hát dù kê, hay nhạc múa truyền thống. Điệu nhạc phổ biến nhất sử dụng cho tới bây giờ là bản đờn Phum Phuông, Prop kai. Thỉnh thoảng dùng nhạc múa lăm lêu… Tất cả đều thể hiện giai điệu vui tươi, sôi nổi theo nhịp 2/4.

Dàn nhạc đệm cho hát ADay, nếu đầy đủ có thể 5 - 6 nhạc cụ truyền thống, gồm: T’ro sô (đàn cò), T’rou (đàn gáo), Khum (tam thập lục), Khlai (sáo trúc), Ch’hưm (chập chả), Tà khê (đàn cá sấu), Sko Đay (trống vỗ)… Tuy nhiên, ngày nay, tại các cuộc chơi đột xuất hay sinh hoạt cộng đồng, chỉ cần vài nhạc cụ như T’sô và Sko Đay vẫn đệm được cho tiết mục hát ADay.

+ Trong hát ADay có thể múa nhưng không nhất thiết phải có múa khi hát ADay. Trong khi hát, tùy vàp làn điệu của bài hát, cảm hứng, vào việc cần nhấn mạnh để nâng lời ca, từng đôi bắt đầu múa xen kẽ giữa những lời hát đối đáp của đôi trai gái. Hát xong một câu, nhạc sẽ tấu lên, người hát sẽ múa vờn quanh người đối diện, nửa vòng như biểu lộ sự nôn nóng, chờ đợi câu hát đáp lại. Sau đó, hai người hát - múa hoán đổi vị trí lẫn nhau. Múa cộng vào hát làm cho ADay trở thành một hình thức trình diễn dân gian hoàn chỉnh.

Múa trong hát ADay là điệu múa tổng hợp, gồm cả điệu rom vong, lăm lêu… Động tác tay múa, tay “chip” còn gọi là bắt, thể hiện sự khéo léo, đẹp đẽ, dịu dàng, kín đáo… Tay “khuôn”, còn gọi là cuộn tròn, hay cuộn vào thể hiện tính mạnh mẽ, dứt khoát. Tay “rồn”, còn gọi là che, như một tư thế che nắng, làm duyên. Tay “chòn-ol”, còn gọi là động tác chỉ, mách bảo cho biết trạng thái tâm tư (buồn, thương, giận, ghét). Cùng với động tác tay, là động tác nhích vai, lắc mông và những bước đi vờn nhau, tình tứ, yêu đời, trêu ghẹo, châm chọc.

- Hát ADay trong các lễ hội, sinh hoạt cộng đồng, nghi lễ gia đình:

Ngay từ xưa, hát ADay thường diễn ra tại các lễ hội của người Khmer Nam bộ, như lễ hội Chôl Chnăm Thmây (mừng năm mới), Sen đôn ta (cúng ông bà), lễ hội Ók-om-bok (lễ cúng trăng, đua ghe ngo). Cuộc hát ADay có thể diễn ra trên sân chùa, hoặc trên sân khấu; có kế hoạch tổ chức, sắp xếp chuẩn bị tiết mục. Khi trình diễn, người thưởng thức ngồi, đứng quây quần xung quanh. Cuộc hát có thể kéo dài cả đêm, bởi còn đan xen với phần trình diễn của múa rom vong, hay tuồng dù kê. Ngoài ra, trong các sinh hoạt cộng đồng, các sự kiện tại chùa, Đội văn nghệ của chùa sẽ tham gia phục vụ các tiết mục ADay được soạn lời mới. Một số đội văn nghệ dàn dựng tiết mục hát ADay để tham gia các hội diễn nghệ thuật quần chúng của tỉnh, huyện, đạt được nhiều giải thưởng, như: Đội văn nghệ chùa Pô Thi Vong Sa (ấp 4, xã Xà Phiên, huyện Long Mỹ), Đội văn nghệ chùa Ô Chum Vong Sa (xã Hỏa Lựu, thành phố Vị Thanh).

Trong các nghi lễ gia đình, đặc biệt là đám cưới, khi đưa lễ vật và chú rể qua nhà gái, dàn nhạc và nhóm hát ADay đến trình diễn, tạo không khí vui tươi sôi nổi, hát ADay với các bài chúc phúc, mong muốn cặp vợ chồng sống hòa thuận, làm ăn khá giả, gia đình hạnh phúc. Sau nghi thức cắt tóc (Pi thi cắc sóc) công nhận sự trưởng thành của chú rể, nghi thức rắc bông cau, buộc chỉ tay cho cô dâu chú rể tại nhà gái, dàn nhạc tấu nhạc lễ, hát ADay chúc phúc cho đôi vợ chồng trẻ.

Hát ADay tham gia vào các lễ hội chỉ để góp vui, tạo điều kiện cho các đôi trai gái có dịp thi tài, “đấu” đối đáp. Đôi khi, họ cũng bén duyên từ đây. Trong các nghi lễ gia đình, hát ADay cũng nhằm ý nghĩa nêu trên, nhưng bài hát thiên về chúc phúc. Do vậy, ngày xưa trai gái trong các phum, sóc vẫn thường ôn luyện về lối hát, điệu múa; cũng như các ứng tác qua lời lẽ, đậm chất văn chương để trổ tài trước mọi người.

Hát ADay của người Khmer Hậu Giang trở thành nét sinh hoạt văn hóa độc đáo, đặc trưng trong các phum, sóc, gắn liền với ngôi chùa và gia đình. Hát ADay thể hiện khả năng sáng tạo văn hóa, thỏa mãn nhu cầu giải trí của cộng đồng. Lời hát ADay phản ánh hiện thực đời sống kinh tế, văn hóa của cộng đồng; thể hiện tình yêu đôi lứa, răn dạy đạo đức, nhắc nhở về hạnh phúc gia đình… Thực hành hát ADay còn là môi trường bảo lưu các giá trị về âm nhạc, múa dân gian của cộng đồng; góp phần cố kết cộng đồng, là cầu nối bền chặt giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với cộng đồng. Hát ADay là minh chứng cho lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất, về tổ chức đời sống văn hóa trong nhà chùa; thể hiện sự giao thoa, giao lưu văn hóa với các cộng đồng người Việt, người Hoa trong vùng.

Với giá trị tiêu biểu, Hát ADay của người Khmer được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 1676/QĐ-BVHTTDL ngày 26 tháng 5 năm 2021./.

http://dsvh.gov.vn/hat-aday-cua-nguoi-khmer-3420




















 

NGHI LỄ ĐẦU NĂM CỦA NGƯỜI CHĂM

Nghi lễ đầu năm của người Chăm (thôn Bỉnh Nghĩa, xã Bắc Sơn, huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận) đồng hành với quá trình hình thành của làng, cùng với quá trình chuyển cư từ nơi này sang nơi khác, từ làng mới đến làng cũ, các thiết chế thờ tự, các tín ngưỡng cúng thần linh không thay đổi. Do đó, đầu năm họ vẫn đến các vùng đất cũ, các vết tích thờ cúng thần trước đây (thuộc thôn Mỹ Tường, xã Nhơn Hải; thôn Mỹ Hiệp, thôn Mỹ Tân, xã Thanh Hải, huyện Ninh Hải) để thực hiện nghi lễ như cúng ở đền Po Bin Thuer, Po Bia Chuai hay lễ Cầu đảo ngoài cửa ngâm (cửa biển).

 

C:\Users\SPRING\Desktop\ảnh vhtt\1-lehoimua-nguoi-cham.jpg

Các nghi lễ đầu năm của người Chăm ở Bỉnh Nghĩa có mục đích, quy trình và cách thức tổ chức khác nhau nhưng đều cấu thành một cấu trúc nghi lễ đặc thù và không thể tách rời, từng nghi lễ riêng biệt cấu thành một chuỗi các nghi lễ thỉnh mời, lễ múa mừng, cúng tế, dâng lễ vật, tạ ơn và cuối cùng là tiễn đưa thần linh, gồm 8 lễ diễn ra vào tháng Một Chăm lịch, cụ thể:

Lễ Rija Harei (Lễ múa ban ngày) tại thôn Bỉnh Nghĩa, xã Bắc Sơn, huyện Thuận Bắc.

Nghi lễ tổ chức trong khuôn viên đền Po Bin Thuer. Dân làng dựng một nhà lễ (kajang) tại sân trước đền thờ, trên trần treo một tấm vải trắng gọi là Lam lir tượng trưng cho trời, phía dưới dựng bàn tổ chức sắc Ka-ing, trên đặt mâm lễ 25 miếng trầu têm, góc nhà lễ là bàn tổ của thầy Mâduen có một khay trầu, cau, khay rượu trứng đặt lên trên chiếu cói. Lễ vật dâng cúng gồm: lễ vật trình báo thần trong đền, lễ vật trong nhà lễ, lễ vật của người dân, lễ vật cúng cơm. Trong nghi lễ Rija Harei, các chức sắc tham gia hành lễ gồm: Mâduen, Ka-ing và Camânei.

Các chức sắc thực hiện nghi lễ, hát các bài thánh ca mời các vị thần linh và các điệu múa dâng lễ lên các vị thần. Các điệu múa trong nghi lễ của người Chăm do chức sắc Ka-ing, Pajau hoặc Rija tộc họ đảm nhiệm, tưởng nhớ thần linh, những người có công xây dựng đất nước. Đi kèm với các điệu múa là những nhạc cụ truyền thống như: trống Gineng, Baranâng, Céng (Chiêng), kèn Saranai, Graong (lục lạc) và đàn Kanyi. Phổ biến hơn cả là bộ ba gồm trống Gineng, trống Baranâng và kèn Saranai, trong đó chủ đạo vẫn là Gineng, vì chúng có âm thanh mạnh mẽ, hùng hồn, quy định những động tác, nhịp điệu nhanh hay chậm.

Lễ Rija Nâgar (Lễ múa đầu năm) tại thôn Bỉnh Nghĩa

Dân làng dựng nhà lễ ở khu đất trống đầu làng, thực hành nghi lễ là các chức sắc Mâduen, Ka-ing, Camânei, Pajau, Kadhar, các nghệ nhân dân gian và sự tham gia của cộng đồng. Nghi lễ (trong 1 ngày), lễ vật khác với các làng Chăm khác. Chức sắc Kadhar và Pajau thực hiện việc dâng lễ vật cho thần linh cũ (Yang Klak), dân làng không tham gia phần lễ này. Đặc biệt, trong phần lễ Yang Klak, có 9 mâm lễ chay (Kaya Yuer), mỗi mâm bài trí thành các tầng khác nhau theo quy định, xếp thành 2 hàng dọc theo từng cặp để dâng cúng các vị thần theo hệ thống từ trên cao xuống: cặp 9 tầng dâng vị thần tối cao là Po Yang Amâ và Po Inâ Nâgar; cặp 8 tầng dâng thần Po Klaong Girai, Po Ramé, Po Girai Bhaok, Po Thun Girai, Thun Cek; cặp 7 tầng dâng cúng Po Klaong Kachait, Po Tang, Po Gihlau, Po Birau, Po Riyak; cặp 5 tầng dâng Po Bin Thuer, Po Dam; 1 mâm lẻ dâng những vong linh tổ tiên, hương chức trong làng.

Nghi thức dâng cúng gồm 2 phần: Yang birau (những người có công khai thiên lập địa) và Yang klak. Chức sắc Mâduen, Ka-ing đảm nhiệm việc dâng cúng Yang Birau bằng món chay. Mâduen làm chủ lễ vỗ trống Baranâng và hát thánh ca, Ka-ing là người múa dâng lễ, ngoài ra còn có chức sắc Camânei (chức sắc giữ y trang Po Bin Thuer) tham gia múa hành lễ cùng với Ka-ing. Ka-ing múa các điệu múa dâng lễ lên từng vị thần, các bậc khai làng, ông bà tổ tiên và múa tiễn các vị thần linh. Sau đó, các chức sắc Kadhar và Pajau tiến hành dâng lễ các món mặn. Sau phần nghi lễ là nghi thức hát đối đáp giữa 2 đội nam và nữ, 2 đội đứng thành hàng ngang đối diện nhau. Cuối cùng là nghi thức múa phồn thực do một người đàn ông trong làng và Pajau thực hiện cầu cho trời đất giao hòa, cây trồng, vật nuôi sinh sôi nảy nở. Người đàn ông được tuyển chọn để múa thức phồn thực là một người đứng tuổi, thân hình khỏe mạnh, gia cảnh êm ấm và có tính hài hước.

Lễ cúng Po Bin Thuer (Ngap Yang Po Bin Thuer) tại thôn Mỹ Tường, xã Nhơn Hải, huyện Ninh Hải

Po Bin Thuer là vị thần có công lập làng, ổn định đời sống dân cư. Ông được người dân thôn Bỉnh Nghĩa tôn kính và lập đền thờ giống như Thần hoàng làng. Người dân thờ phụng vị thần qua biểu tượng một tảng đá trên ngọn núi. Do việc di chuyển lên núi gặp nhiều khó khăn nên năm 2004, người dân làng Bỉnh Nghĩa đã quyên góp xây dựng đền thờ dưới chân núi để thuận tiện cho công việc cúng lễ.

Nghi lễ được thực hiện trước cửa đền, chủ lễ là Pajau và Kadhar. Trong nghi lễ có múa rước y trang được mang từ làng Bỉnh Nghĩa đi đến đền thờ Po Bin Thuer ở thôn Mỹ Tường. Chức sắc Kadhar và Pajau hành lễ dâng lễ vật cho thần linh, sử dụng đàn Kanyi đệm cho Kadhar hát thỉnh mời thần linh, ca ngợi công trạng từng vị thần, cầu mong thần linh phù hộ, giúp đỡ người dân thoát khỏi tai ương, bệnh tật, mùa màng được bội thu, cuộc sống ấm no và hạnh phúc. Phía ngoài đền, dân làng mang lễ vật đến nhờ Pajau và Kadhar khấn cầu với  Thần Po Ginuer Mâtri chấp nhận lễ vật của gia đình mình.

Lễ cúng Po Bia Chuai (Ngap Yang Po Bia Chuai) tại thôn Mỹ Hiệp, xã Thanh Hải, huyện Ninh Hải

Tương truyền, Po Bia Chuai là hoàng hậu của Po Bin Thuer. Do đó, khi cúng cho Po Bin Thuer xong thì sáng ngày hôm sau sẽ làm lễ cúng Po Bia Chuai. Ðền thờ Po Bia Chuai nằm trên một đồi cát cạnh bờ biển gọi là Hòn đỏ. Lễ cúng Po Bia Chuai cũng giống với lễ cúng Po Bin Thuer về lễ vật, chức sắc hành lễ, tiến trình hành lễ và mục đích, ý nghĩa của việc dâng lễ. Sau khi thực hiện xong nghi lễ Po Bin Thuer, các vị chức sắc cùng người dân thôn Bỉnh Nghĩa di chuyển về cửa biển thôn Mỹ Tân (Cửa ngâm), xã Thanh Hải, huyện Ninh Hải, dựng nhà lễ tại cửa ngâm nghỉ qua đêm. Y trang của Po Bia Chuai được các vị chức sắc và bà bóng trong tộc họ Camânei đem cất trong nhà lễ để sáng hôm sau mới chuyển đến Hòn đỏ để tiếp tục làm lễ cúng Po Bia Chuai. Nghi thức múa rước y trang Po Bia Chuai cũng giống như nghi thức múa của Po Bin Thuer.

Ban nhạc lễ sử dụng các nhạc cụ Gineng, Saranai và chiêng để tấu nhạc cho đoàn múa lễ rước y trang vào đền thờ Po Bia Chuai. Trong lễ cúng Po Bia Chuai chỉ sử dụng đàn Kanyi. Chức sắc Kadhar vừa kéo đàn Kanyi vừa hát thánh ca để dâng lễ vật cho thần linh. Trong lễ cúng Po Bia Chuai số lượng các vị thần linh không thay đổi so với lễ cúng Po Bin Thuer, chỉ có sự thay đổi về trình tự các vị thần linh được thỉnh mời đến chứng kiến lễ và nhận lễ vật do người dân dâng cúng. Khi cúng lễ cho Po Bia Chuai thì thỉnh mời Po Bia Chuai đầu tiên.

Lễ cúng Paralao kasah (Lễ cầu đảo) tại thôn Mỹ Tân, xã Thanh Hải huyện Ninh Hải

Paralao kasah là một nghi lễ đặc biệt trong chuỗi lễ đầu năm của làng Bỉnh Nghĩa. Quá trình ra đời của nghi lễ gắn liền với thời kỳ người Chăm còn sinh sống dọc ven biển Nam Trung bộ. Nghi lễ được tổ chức tại cửa biển, người dân địa phương gọi là cửa ngâm. Khi nghi lễ Po Bia Chuai kết thúc, dân làng chuẩn bị đồ cúng và dựng nhà lễ tại cửa ngâm. Nghi lễ có hai phần dâng lễ vật cho các thần linh: một do chức sắc Mâduen và Ka-ing phụ trách; hai do các chức sắc Pajau và Kadhar thực hiện. Hiện nay, các nghi lễ tổ chức tại cửa biển của người Chăm đã mai một, chỉ làng Bỉnh Nghĩa còn thực hành nhưng quy mô nhỏ.

Lễ vật dâng cúng gồm có 1 con dê, trứng, hoa quả, gạo, rượu, muối… Có 2 khu vực đặt lễ riêng biệt: khu vực đặt lễ của chức sắc hành lễ (trong nhà), khu vực đặt lễ của dân làng (ngoài nhà).

Đầu tiên là cúng cửa ngâm khai thông cửa biển, khấn cầu trời yên biển lặng, được mùa tôm cá, dân làng được bình an, mạnh khoẻ, cuộc sống ấm no hạnh phúc. Sau đó là các nghi thức dâng cúng tương tự như nghi lễ Rija Nâgar, dâng cúng cho thần Yang Birau và Yang klak. Chức sắc đảm nhiệm việc dâng cúng Yang Birau là Mâduen và Ka-ing. Mâduen làm chủ lễ vỗ trống Baranâng và hát thánh ca, Ka-ing là người múa dâng lễ các vị thần, ngoài ra còn có chức sắc Camânei tham gia múa cùng với Ka-ing, nhạc lễ gồm kèn Saranai, trống Gineng và Céng. Tiếp đến là hát đối đáp và múa phồn thực. Ngoài ra, cộng đồng người Chăm còn giao lưu âm nhạc và đấu vật với cư dân ven biển suốt đêm. Các ngư dân đi đánh bắt cá được họ biếu cho người Chăm mang về, họ tin rằng nhờ người Chăm cúng biển mà trời yên biển lặng, tôm cá đầy khoang.

Lễ cúng Po Inâ Nâgar Hamu kut (Lễ cúng Mẹ thần xứ sở hamu kut)  tại thôn Bỉnh Nghĩa

Khi cúng lễ ở cửa ngâm xong, dân làng tổ chức dâng lễ vật lên Po Inâ Nâgar Hamu kut tại đền thờ Bà ở làng. Về cơ bản, nghi lễ là sự kết hợp từ hai lễ Rija Nâgar và Po Bia Chuai. Chủ trì buổi lễ là Pajau (bà bóng cộng đồng) và Kadhar (thầy kéo đàn nhị). Pajau thỉnh mời thần linh, cầu mong những điều tốt đẹp cho dân làng. Kadhar hát thánh ca kể về tiểu sử và công đức các vị thần linh. Trong nghi lễ có múa phồn thực, hát đối đáp. Dân làng Bỉnh Nghĩa tin Po Inâ Nâgar sẽ ban cho họ cuộc sống ấm no và hạnh phúc. Đặc biệt, những cặp vợ chồng hiếm muộn con cái khi đến khấn cầu đều rất linh nghiệm, cho nên trong nghi lễ Po Inâ Nâgar Hamu kut có nghi thức hát cầu con.

Lễ cúng Po Nai và Po Riyak tại thôn Bỉnh Nghĩa

Tại thôn Bỉnh Nghĩa không có lập đền thờ riêng cho Po Nai và Po Riyak giống như một số làng Chăm khác. Hàng năm, Ban Phong tục làng tổ chức nghi lễ trước cửa đền Po Bin Thuer để cho người dân đến dâng lễ vật. Các chức sắc hành lễ là Mâduen, Ka-ing, Camânei và Ban nhạc lễ. Nghi lễ tổ chức đơn giản, không dựng nhà lễ. Nơi hành lễ chỉ treo một tấm panil (tấm trướng). Lễ vật dâng cúng cho Po Nai chủ yếu là bánh, trái và xôi, chè, lễ vật cúng Po Riyak có thêm thịt dê. Nghi lễ, các bài hát và điệu trống gần giống với nghi lễ Rija Harei.

Lễ cúng Ikak Ghak Ikak Limah (Lễ tống ôn) tại thôn Bỉnh Nghĩa

Đây là nghi lễ cuối cùng trong chuỗi lễ hội đầu năm của làng Chăm Bỉnh Nghĩa để cầu an, xin những điều tốt đẹp, đồng thời, tống tiễn những tai ương, xấu xa ra khỏi làng. Chức sắc đảm nhận chính trong nghi lễ là Kadhar, Pajau, người dân không tham gia cúng. Ngoài những lời khấn, Kadhar còn hát về tiểu sử, công đức của các vị thần linh và nhắc nhở con cháu luôn hướng về cội nguồn, tri ân những người đã có công khai khẩn lập làng.

Nơi hành lễ là khoảng sân trống ở các ngã 3, ngã 4 đường. Trong lễ cúng có tục hèm, khi Kadhar hát đến Po Klaong Kachait, một nghệ nhân đóng vai người cưỡi ngựa chạy ra đầu làng mang thông điệp cùng những lời khấn cầu của dân làng đến với thần linh, ông bà, tổ tiên. Khi trở về nghệ nhân được chức sắc Kadhar thưởng một số lễ vật.

Qua các nghi lễ đầu năm, mọi người hy vọng và tin tưởng sẽ được thần linh và tổ tiên phù hộ, che chở cho dân làng được cuộc sống bình an và hạnh phúc.

Nghi lễ đầu năm của người Chăm làng Bỉnh Nghĩa thể hiện dấu ấn của việc hành hương, thực hành tín ngưỡng ở vùng đất tổ hay ở nơi sinh tụ xưa kia của tiền nhân; góp phần quan trọng trong việc bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống của người Chăm; đáp ứng nhu cầu tâm linh của cộng đồng; góp phần đoàn kết các thành viên trong làng. Các nghi lễ là nơi hội tụ của nhiều loại hình âm nhạc, diễn xướng nghi lễ mang tính nghệ thuật của người Chăm mà không cộng đồng Chăm nào trong tỉnh có được như loại hình hát lễ Mâduen, Kadhar, hát đối đáp, loại hình múa lễ của Ka-ing (Camânei), múa phồn thực... Những bài cúng lễ, bài hát lễ của chức sắc Kadhar giúp hiểu biết về tiểu sử của các vị thần linh. Hình thức diễn xướng dân gian, có tính giáo dục truyền thống “uống nước nhớ nguồn” tôn vinh các bậc tiền hiền đã có công lao khai khẩn đất đai, lập làng, ổn định đời sống xã hội.

Với giá trị tiêu biểu, Nghi lễ đầu năm của người Chăm làng Bỉnh Nghĩa được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 606/QĐ-BVHTTDL ngày 03 tháng 02 năm 2021./.

http://dsvh.gov.vn/nghi-le-dau-nam-cua-nguoi-cham-3422












 

LỄ KẾT CHẠ PHÚ MỸ - KIỀU MAI

Phú Mỹ (phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm) và Kiều Mai (phường Phúc Diễn, quận Bắc Từ Liêm) là hai làng giáp nhau của thành phố Hà Nội, lấy sông Nhuệ là điểm phân giới và làm nông nghiệp xen canh. Việc kết chạ giữa hai thôn Phú Mỹ - Kiều Mai được các chức sắc 2 làng cùng ký vào bản hương ước ngày 10 tháng Tư năm Cảnh Hưng thứ 6 (1745), sau bị hỏng nên được chép lại ngày 01 tháng Sáu năm Quý Dậu (1933), niên hiệu Bảo Đại. Lễ kết chạ Phú Mỹ - Kiều Mai bắt nguồn từ tục kết chạ giữa 2 làng để giao hữu, giúp đỡ nhau trong sản xuất và đời sống. Mối giao hảo diễn ra nhiều năm, gặp năm hòa cốc phong đăng, các cụ tiên chỉ và chức sắc cùng hai dân đồng thuận họp bàn kết tình giao hiếu, phụng nghênh Thánh giá hai làng vào dịp lễ hội. C:\Users\SPRING\Desktop\ảnh vhtt\nhipsonghanoi.hanoimoi.com.vn-uploads-images-phananh-2021-01-15-_ket-cha.jpg

Theo lệ xưa, năm nào hòa cốc phong đăng, hai làng cùng thống nhất tổ chức lễ hội và có rước lớn: vào ngày 7 tháng Giêng (Âm lịch), theo lệ thờ Thần, dân làng Kiều Mai đến đình Phú Lễ lễ thần (thờ Lý Nam Đế, Lý Phật Tử và Ả Lã Nàng Đê); ngày 10 tháng Hai, dân làng Phú Mỹ đến đình Kiều Mai làm lễ thần (thờ vị tướng thời Hùng Vương thứ 18). Sau năm 1945 đến trước năm 2020, lễ kết chạ Phú Mỹ - Kiều Mai được tổ chức lớn 5 năm 2 lần, còn lại là hội lệ. Từ năm 2020, lễ kết chạ Phú Mỹ - Kiều Mai tổ chức lễ hội quy mô lớn 5 năm 1 lần, các năm khác chỉ tổ chức hội lệ quy mô nhỏ.

Hội lệ: người tham gia rước ít hơn, thôn này rước kiệu long đình với đầy đủ tự khí đến dự lễ với thôn kia, không rước kiệu Thánh (bát cống), không tuyển Quân kiệu nam và Quân kiệu nữ.

Lễ hội quy mô lớn, mỗi làng sẽ rước 2 kiệu, gồm: 1 long đình và 1 kiệu bát cống, đầy đủ tự khí, với số người của đoàn rước 2 làng tương đương nhau, lên đến 300 người/đoàn rước, gồm: các cụ phụ lão, Đội tế nam, Đội tế nữ, Đội chấp kích, Quân kiệu nam, Quân kiệu nữ, Đội múa lân, rồng, Đội nhạc lễ, Đại diện chính quyền Phường, Tổ dân phố, Ban quản lý di tích, Đội bảo vệ, Đội ngũ phục vụ cho các hoạt động của lễ hội (đối với thôn đón đoàn lễ của Chạ).

Tiêu chuẩn lựa chọn người trong Ban tế, đội rước của hai làng có sự giống nhau như: Chủ tế phải là người có gia đình song toàn, đạo đức, không vướng tang bụi; quân kiệu xưa kia phải là trai tân, đạo đức, không vướng tang bụi, nay có thêm quân kiệu nữ.

Lễ hội của làng Phú Mỹ tổ chức trong 3 ngày (từ mùng 5 đến mùng 7 tháng Giêng); lễ hội làng Kiều Mai tổ chức trong 4 ngày (từ mùng 9 đến 12 tháng Giêng). Trong các ngày đó, mỗi làng có một ngày tổ chức rước kiệu giao hiếu, tế lễ hội đồng đối với làng kia và ngày tiếp theo thì tổ chức hoạt động giao hữu thể thao. Ngày rước giao hiếu, đón Chạ, quy trình và sự chuẩn bị của mỗi làng như sau:

Lễ hội làng Phú Mỹ: Ngày mùng 5, làng tổ chức lễ rước nước từ đình ra giếng Mễ và ngược lại. Đoàn rước nước có kiệu rước nước với chóe, hương đăng do trai đinh khiêng kiệu, hộ giá là các cụ cao niên, ban tế, trống, thanh la và đội múa lân sư. Giếng Mễ ở giữa làng, là giếng nước rất trong, nơi cung cấp nước cho làng Phú Mỹ ngày xưa.

Mùng 6, làng tổ chức rước Nghiền, rước tập, từ đình ra đến cổng làng và ngược lại với đội hình rước như chính hội, có kiệu, quân kiệu, đồ tế khí, đội nhạc lễ, cờ quạt, đội múa lân sư… Bên cạnh đó, làng cũng cho dựng một rạp nhỏ, bên trong bày biện bàn thờ tại địa phận phường Cầu Diễn, điểm giữa của hai địa phương, để hôm sau đón đoàn rước chạ thôn Kiều Mai nghỉ chân và bái vọng chào Đức Thánh thôn Phú Mỹ, đồng thời, để đoàn rước thôn Phú Mỹ bái vọng chào Đức Thánh thôn Kiều Mai (việc này được tiến hành ở cả 2 lượt, đi và về, đối với đoàn rước của hai thôn).

Mùng 7 là chính hội, làng tổ chức rước giao hiếu với làng Kiều Mai. Buổi sáng, dân làng làm lễ tế, sau đó các đội quân kiệu, thanh la, bát bửu, đại diện chính quyền và dân làng Phú Mỹ vào dâng hương lễ Thánh. Sau lễ dâng hương, dân làng tổ chức rước kiệu ra Miếu đầu làng làm lễ và chờ đón đoàn rước làng Kiều Mai. Đoàn rước Phú Mỹ đón đoàn Kiều Mai ở giữa chặng đường, địa phận phường Cầu Diễn ngày nay (vốn xưa cũng là đất của Phú Mỹ), tại điểm đã dựng rạp và sắp đặt một bàn thờ vọng Thánh. Sáng mùng 7, khi đoàn rước Kiều Mai đến đây, chiếu đã được trải sẵn để kiệu nghỉ, đại diện Ban tổ chức lễ hội hai làng, các cụ cao niên trong Ban tế cùng vào bái vọng Đức Thánh làng Phú Mỹ tại ban thờ đã chuẩn bị sẵn. Đoàn nghỉ ngơi một lát rồi cùng nhau lên đường rước về đình Phú Mỹ. Khi 4 kiệu gặp nhau ở đầu làng Phú Mỹ, nhân dân Phú Mỹ đứng đợi rất đông hai bên đường, đặc biệt, các kiệu rước gặp nhau đều xoay nhiều vòng trong không khí rộn ràng của đám đông. Về đến đình Phú Mỹ, chiếu cũng được trải sẵn trên sân để trí kiệu. Chủ tế và các cụ trong Ban tế nam làng Kiều Mai rước bát hương, lư hương và các đồ lễ vào trao cho cụ chủ tế và các cụ trong Ban tế nam làng Phú Mỹ để rước vào an vị các Thánh trong hậu cung đình Phú Mỹ. Sau đó là nghi thức tế Hội đồng của hai bên. Đây là nghi thức rất quan trọng, thể hiện rõ mối thâm tình của hai làng. Hai cụ Chủ tế sẽ vào lễ trước, sau đó đọc chúc và hóa chúc tại chậu hóa trong hậu cung đình. Tiếp đến là Ban tế nam hai bên, tế hội đồng, rồi lần lượt các đội dâng hương, quân kiệu, lãnh đạo và dân làng vào lễ thánh đình Phú Mỹ. Buổi trưa, mọi người cùng thụ lộc tại sân đình Phú Mỹ do Ban tổ chức lễ hội làng Phú Mỹ chuẩn bị, cùng nhau chuyện trò, ôn lại các kỷ niệm, thắt chặt tình đoàn kết. Buổi chiều, hai làng giao lưu văn nghệ, thể thao rồi lại cùng nhau tế Hội đồng để phụng nghênh Thánh giá làng Kiều Mai trở về. Toàn bộ đoàn rước của làng Phú Mỹ sẽ rước kiệu và các đồ tế khí của làng Kiều Mai ra tận phía ngoài đầu làng Phú Mỹ mới trao lại cho đoàn rước làng Kiều Mai rước Thánh về đình Kiều Mai. Sau đó, dân làng tiếp tục thực hành các nghi lễ theo truyền thống.

Lễ hội làng Kiều Mai: Bắt đầu từ trưa mùng 9, làng làm lễ Phong mã (phong áo mũ Thánh), tế nhập tịch, tế dâng hương của các cụ bà và chiều tối dân làng vào lễ Thánh.

Mùng 10, buổi sáng, Ban tế làm lễ tế phụng nghênh Thánh giá làng tiếp đón chạ Phú Mỹ. Sau đó, đoàn rước Thánh giá ra khu vực Bia tưởng niệm Bác Hồ, đến đợi đón đoàn rước thôn Phú Mỹ ở đầu làng, đoạn giao quốc lộ 32. Sau khi đón chạ Phú Mỹ, cả hai đoàn sẽ cùng rước Thánh giá về đình Kiều Mai. Chủ tế và các cụ trong Ban tế làng Phú Mỹ rước bát hương, đồ lễ vật vào chuyển giao cho Chủ tế làng Kiều Mai và các cụ trong Ban tế làng Kiều Mai để dâng lên ban thờ Thánh làng Kiều Mai, sau đó bắt đầu tế Hội đồng - còn gọi là lễ Chí tịch. Hai Chủ tế cùng vào tế Thánh trước, sau đó đọc chúc văn, rồi hóa tại chỗ. Tiếp đến là Ban Tế nam hai bên cùng vào tế, rồi đến các đội dâng hương, các cụ phụ lão, đội kiệu, đội tự khí, chiêng trống, các ban ngành đoàn thể và nhân dân hai thôn vào lễ Thánh. Sau đó hai bên cùng nghỉ ngơi và giao lưu tiệc cỗ do làng Kiều Mai chuẩn bị. Buổi chiều, hai làng giao lưu văn nghệ. Tiếp đó, Ban tế hai bên cùng làm lễ phụng nghênh Thánh giá hồi cung, đoàn rước làng Kiều Mai sẽ rước kiệu và các đồ tự khí của làng Phú Mỹ để tiễn ra đến đường quốc lộ 32. Song song với đó là các trò chơi dân gian được diễn ra trong khuôn viên đình Kiều Mai.

Ngày 11, hai làng tổ chức giao lưu thể thao, thi bóng chuyền. Các cụ trong Ban tế làng Kiều Mai thực hiện nghi thức Tế trực, dâng hương.

Ngày 12, các cụ tiếp tục tế Thánh đản, dâng hương. Buổi chiều, các cụ làm lễ xuất tịch, lễ yên vị Đức Thánh và kết thúc lễ hội.

Ngày hội của hai làng còn tổ chức các trò chơi dân gian như: cờ tướng/cờ bỏi, bắt vịt dưới ao đình, chọi gà, đập niêu, leo cột..., hát Quan họ, Ca trù…

Lễ kết chạ Phú Mỹ - Kiều Mai đến nay vẫn được duy trì, thực hành theo truyền thống và bảo lưu giá trị. Tục kết chạ hay còn gọi là giao hiếu là một phong tục tốt đẹp trong mối quan hệ liên kết các làng xã trong xã hội Việt cổ truyền, góp phần củng cố khối đại đoàn kết cộng đồng, quốc gia, dân tộc. Tục kết chạ giữa hai làng Phú Mỹ - Kiều Mai là một biểu hiện sinh động về mối quan hệ độc đáo này. Lễ kết chạ Phú Mỹ - Kiều Mai tồn tại đến nay như một “hóa thạch” về hình thức liên làng truyền thống giữa lòng đô thị, đảm nhiệm chức năng liên kết phố - phường. Tham gia lễ hội là dịp để dân làng nhớ về quê hương bản quán, thắt chặt tình đoàn kết, làm phong phú thêm đời sống tinh thần của hai cộng đồng, góp phần gìn giữ những phong tục, truyền thống tốt đẹp, giáo dục tuyền thống cho các thế hệ kế tiếp.

Với giá trị tiêu biểu trên, Lễ kết chạ Phú Mỹ - Kiều Mai được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 1728/QĐ-BVHTTDL ngày 27/5/2021./.

 

http://dsvh.gov.vn/le-ket-cha-phu-my-kieu-mai-3398
































 

LỄ HỘI NĂM LÀNG MỌC

Lễ hội năm làng Mọc xưa gồm các làng Giáp Nhất, Chính Kinh, Cự Lộc, Quan Nhân và Phùng Khoang; sau Cự Lộc và Chính Kinh nhập lại thành Cự Chính nên còn bốn làng: Giáp Nhất, Cự Chính, Quan Nhân và Phùng Khoang, diễn ra từ ngày mùng 10 đến ngày 12 tháng Hai (Âm lịch) để rước các Thánh du xuân, thưởng lãm cảnh quan năm làng và cầu cho quốc thái dân an…

 

C:\Users\SPRING\Desktop\ảnh vhtt\article.jfif

Tương truyền, ngày xưa, do thiên tai, nhân dân trong vùng đói kém, người chết đầy đường, bệnh dịch tràn lan, làng Phùng Khoang được vua cho nấu cháo, cơm nắm để phát cho dân chúng. Một cậu bé khi nhận được một nắm cơm đã chia cho 4 cậu bé khác cùng ăn. 5 người kết nghĩa anh em, sau này lớn lên, 5 người lập nghiệp ở vùng này, tạo dựng thành những làng trù phú, chính là 5 làng Mọc sau này.

Lễ hội năm làng Mọc được hình thành từ tục kết chạ giữa năm làng Giáp Nhất, Chính Kinh, Cự Lộc, Chính Kinh, Quan Nhân và Phùng Khoang, vừa kết thân, vừa tương trợ lẫn nhau. Mỗi làng thờ một vị thành hoàng làng riêng. Làng Giáp Nhất thờ Phùng Luông - vị tướng dưới thời Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng; Làng Cự Chính thờ Đức Thánh Lã Đại Liệu - nha tướng dưới thời Ngô Quyền; Làng Quan Nhân thờ Trung Nghĩa Đại Vương Hùng Lãng Công - người có công đánh giặc Nam Chiếu và dưới phủ thờ phu nhân là Thánh bà Trương Mỵ Nương; Làng Phùng Khoang thờ Đoàn Thượng tướng quân.

Lễ hội năm làng Mọc là lễ hội vùng dọc sông Tô Lịch, được tổ chức tại bốn đình thuộc hai quận, gồm: Giáp Nhất, Cự Chính, Quan Nhân (phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân) và Phùng Khoang (phường Trung Văn, quận Nam Từ Liêm). Lễ hội nhằm tưởng nhớ các vị tiền bối có công với làng, với dân tộc. Lễ hội năm làng Mọc là một hội lớn, thời xưa vào những năm phong đăng hỏa cốc dân làng mới đủ điều kiện tổ chức. Từ năm 1992, dân các làng thống nhất 5 năm tổ chức hội một lần diễn ra vào ngày 11, 12 tháng Hai, luân phiên từng làng làm cai. Những năm không phải hội lớn, từng làng vẫn tổ chức hội làng theo tập tục.

Để tổ chức lễ hội, trước Tết Nguyên đán, cộng đồng và chính quyền địa phương đã họp bàn để chuẩn bị. Cộng đồng lựa chọn các cá nhân thực hiện vai trò chính trong lễ hội như: Bầu hậu (điều hành lễ hội, là người cao tuổi, am hiểu nghi lễ của làng, được dân tín nhiệm), ông Khởi chỉ (người phục vụ lễ hội; làng Cự Chính do 2 làng nhập lại nên có 2 ông Khởi chỉ; làng Quan nhân có kiệu ông, kiệu bà nên có ông Khởi chỉ và bà Khởi chỉ), ông bà Tổng cờ, đội tế, đội múa bài bông, đội rước kiệu…, là những người khỏe mạnh, gia đình không vướng tang để tập luyện thuần thục trước khi vào lễ. Lễ vật dâng Thánh có mâm lễ chung của làng do cụ Từ chuẩn bị, mâm lễ riêng của các xóm, các cụ cao tuổi, các dòng họ, gia đình. Mỗi làng chuẩn bị một kiệu lễ với xôi, thủ lợn, oản, quả để mang đến làng đăng cai. Việc tổ chức thực hành các nghi lễ trong Lễ hội Năm làng Mọc về cơ bản vẫn thực hành theo truyền thống.

Ngày 8, các cụ làm lễ trình tại đình, Ban khánh tiết và Ban nghi lễ bày voi, ngựa, nghi trượng, đưa kiệu và lọng ra sân đình; trang trí, cắm cờ ngũ sắc dọc đường làng. Buổi chiều quân kiệu tập duyệt rước kiệu quanh đình, tập dâng lên, hạ xuống cho đều.

Sáng ngày 9, các ông bà Chủ tế, Khởi chỉ, Tổng cờ cùng các giai nam, giai nữ ra đình làm lễ trình Thánh. Buổi chiều, Ban Tổ chức tiến hành tổng duyệt các nghi thức rước kiệu để chuẩn bị cho đoàn rước ngày 12.

Ngày 10, các dòng họ dâng lễ cúng Thánh. Buổi chiều, đội dâng hương làm lễ Tiên thường. Trong thời gian này, Ban khánh tiết sẽ tiến hành kiểm tra lần cuối chuẩn bị cho nghi thức rước diễn ra vào ngày hôm sau. Tùy thuộc vào làng nào đăng cai mà lễ rước năm làng sẽ được tiến hành vào ngày 11 (Quan Nhân, Phùng Khoang) hay ngày 12 (Giáp Nhất, Cự Chính).

Kỳ hội tổ chức rước vào ngày 12 thì ngày 11 các làng sẽ tổ chức lễ tế cáo và chuẩn bị cho đoàn rước kiệu vào ngày 12. Riêng ở làng Quan Nhân, dân làng có lễ rước nước. Đoàn rước khởi kiệu từ đình Trong, theo thứ tự: kiệu long đình rước bát hương, kiệu bát cống rước Đức Thánh Ông, kiệu nước và cuối cùng là kiệu Đức Thánh Bà. Đoàn rước ra giếng ở gần đình Hội Xuân, rước nước lên “Nhà mộc dục” (nằm ở giữa hai đình), tiến hành bao sái cho Đức Thánh Ông và Đức Thánh Bà trước khi rước. Sau đó, rước nhị vị đi quanh làng rồi về đình trong dự hội.

Vào ngày rước, buổi sáng, sau ba hồi trống lệnh, phường đồng văn nổi nhạc thì các bộ phận của đoàn rước lần lượt đứng vào vị trí. Sau hồi chiêng trống, cuộc rước chính thức bắt đầu, các chân kiệu bắt đầu rước long kiệu từ trong đình ra. Đi đầu là năm lá cờ ngũ hành; đội múa cờ; đội trống; đội múa sư tử; ngựa hồng, ngựa bạch; đội múa bồng; hương án; đoàn phật tử; đội bát bửu; đoàn chấp kích; phường đồng văn; đội múa sinh tiền; đội trống bản; kiệu long đình; đội lộ bộ; phường bát âm; đội kiệu Thánh; đội múa lân và múa rồng,… cùng dân làng.

Đoàn rước của các làng về cơ bản giống nhau, riêng đoàn rước của làng Quan Nhân có hai kiệu long đình, hai kiệu bát cống do đình Quan Nhân thờ hai vị Thành hoàng: Đức thánh Ông và Đức thánh Bà. Trước đây, kiệu Đức Thánh Bà chỉ trực tại đình Hội Xuân đợi kiệu của các làng anh em đến chào rồi quay về. Có một vài lần kiệu bà lại bay quá xa, cùng với kiệu Đức Thánh Ông sang chào kiệu Đức Thánh làng anh cả Giáp Nhất và đức Thánh làng anh hai Cự Chính, rồi mới quay về, nên sau này dân làng rước luôn 2 kiệu cùng đi hội.

Đoàn rước của làng đăng cai sẽ thống nhất với các làng anh em địa điểm đón đoàn rước: Giáp Nhất sẽ đón tại ao Nghè, Cự Chính sẽ đón tại cầu Cống Lim, Quan Nhân sẽ đón tại đình Hội Xuân, Phùng Khoang sẽ đón tại cổng chào của làng. Sau khi tề tựu đông đủ, các đoàn rước sẽ nhập thành một đoàn theo thứ tự: Giáp Nhất, Cự Chính, Quan Nhân, Phùng Khoang rồi tiến về trung tâm lễ hội. Trên đường đoàn rước đi qua, nhân dân hai bên đều bày hương án, lễ vật đón rước Thánh và cầu mong phước lành đến với gia đình.

Về đến đình làng đăng cai, Ban điều hành của làng cử người hướng dẫn các làng anh em bầy nghi trượng vào vị trí quy định, nghỉ ngơi trầu nước để chuẩn bị tế lễ.

Khoảng 10 giờ sáng, các làng sẽ tiến hành tế hội đồng, do đội tế của năm làng thực hiện. Sau ba hồi ba tiếng trống báo hiệu, cuộc tế chính thức bắt đầu. Nghi thức tế hội đồng được thực hiện tại nhà tám mái dựng tại sân đình, với 3 tuần tế trong tiếng nhạc của dàn bát âm và tiếng chiêng, trống: sơ hiến lễ, á hiến lễ và chung hiến lễ.

Sau khi hoàn tất nghi thức tế hội đồng, các đội, các ban, các cụ thọ cùng các quan viên chỉnh trang lễ phục lần lượt theo lứa tuổi vào lễ tạ. Tiếp đến là dân làng và khách thập phương vào dâng lễ cầu Thánh.

Tế thánh xong, các cụ và dân làng cùng thụ lộc. Đình đăng cai sẽ mời khách ba làng anh em nghỉ ngơi và dự bữa cỗ chung với làng. Các cụ Thập, Cửu, Bát, Thất theo thứ tự sẽ ngồi thụ lộc trong nội đình, còn dân làng và khách thập phương sẽ thụ lộc tại sân đình.

Buổi chiều, 5 làng làm lễ tạ Thánh, các ngai Thánh cùng thần vị được cụ Từ và một số giai kiệu, chức sắc vào làm lễ rồi đưa ra kiệu để rước Thánh trở về làng của mình. Đoàn rước vẫn theo thứ tự: Giáp Nhất, Cự Lộc, Chính Kinh, Quan Nhân và Phùng Khoang. Qua cổng làng, kiệu Thánh làng đăng cai sẽ chào kiệu Thánh các làng anh em. Các làng anh em lần lượt chào chủ đám và rước Thánh làng mình hồi cung.

Tại các làng, sau khi rước Thánh hồi cung, dân làng làm lễ dâng hương, sau đó rước thần vị cùng với mũ áo của nhà ngài vào trả lại ở vị trí cũ. Riêng làng Quan Nhân, sau khi kiệu về đình, rước kiệu Đức Thánh Bà lên ngự cùng Đức Thánh Ông ba ngày ở hậu cung, sau đó mới về phủ. Lễ này gọi là “mật rước”, vì dân làng không được biết, chỉ có Cụ Từ và một số người cao tuổi biết.

Ngày 13, các làng làm lễ tạ và lễ yên vị đức Thánh.

Trong những ngày diễn ra lễ hội, nhiều trò chơi dân gian được tổ chức xung quanh đình thu hút được đông đảo người dân và du khách tham gia như: Đánh cờ, đá cầu, chọi gà, tổ tôm, bắt vịt,...

Lễ hội năm làng Mọc mang đậm giá trị lịch sử, gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của cộng đồng cư dân Kẻ Mọc, các làng Giáp Nhất, Cự Chính, Quan Nhân, Phùng Khoang. Lễ hội phản ánh ước nguyện về một cuộc sống “người yên vật thịnh” của người dân và cộng đồng. Người dân tổ chức lễ hội thể hiện sự cố kết cộng đồng, là dịp để toàn cộng đồng được hóa thân, nhập cuộc vào việc làng, thể hiện vai trò và trách nhiệm của mỗi người trong cộng đồng làng xã. Tham gia lễ hội giúp người dân gắn kết với nhau để hình thành, củng cố một cộng đồng thống nhất cùng xây dựng cuộc sống, duy trì thuần phong mỹ tục của địa phương. Các trò diễn trong lễ hội như con đĩ đánh bồng mang tính chất phồn thực, cầu mong cho một năm mới ấm no, hạnh phúc. Lễ hội năm làng Mọc đáp ứng nhu cầu tâm linh của dân làng và cả nhân dân khu vực lân cận, tăng cường mối liên kết giữa các cộng đồng người. Lễ hội là môi trường lưu giữ và trao truyền các nghi lễ, nghệ thuật trình diễn dân gian, trò diễn dân gian, các giá trị lịch sử, văn hóa... đến các thế hệ kế tiếp.

Với giá trị tiêu biểu, Lễ hội năm làng Mọc được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 1727/QĐ-BVHTTDL ngày 27 tháng 5 năm 2021./.


http://dsvh.gov.vn/le-hoi-nam-lang-moc-3399

















 

NGHỀ LÀM GIẦY THÊU CỦA NGƯỜI HOA XẠ PHANG

Người Hoa (tự gọi là người Xạ Phang) là dân tộc ít người của tỉnh Điện Biên, cư trú thành bản, theo dòng họ ở các huyện Mường Chà, Nậm Pồ, Mường Nhé, Tủa Chùa. Đến nay, họ vẫn còn giữ được rất nhiều di sản văn hóa truyền thống của dân tộc, trong đó có bộ trang phục truyền thống và những đôi giày thêu với những nét hoa văn tinh xảo, độc đáo thể hiện trình độ nghệ thuật và kỹ thuật điêu luyện của người phụ nữ Xạ Phang.

C:\Users\SPRING\Desktop\ảnh vhtt\image-20211112180821-2.jpeg

Đôi giày (tiếng Xạ Phang là liển hài) do những người phụ nữ tự khâu và thêu cho các thành viên trong gia đình sử dụng và tích lũy dùng dần. Ngoài ra, người Xạ Phang còn làm ra những đôi giày chuyên biệt bán cho người Mông dùng để niệm theo người chết. Giày của người Xạ Phang có nhiều loại như: giày nam, giày nữ, giày cho người cao tuổi và giày dành riêng cho chú rể, cô dâu trong ngày cưới. Giày cho người cao tuổi và giày chú rể chỉ có màu đen, mũi tròn và kín. Còn giày cho nam và nữ, từ trung tuổi trở xuống đều là các đôi giày nhiều màu sắc, nhiều họa tiết. Ðiểm khác nhau giữa giày nam và giày nữ là giày nữ kín mũi, còn giày nam hở một phần phía trước và thân giày.

 Ngay từ khi còn thiếu niên, các bé gái người Xạ Phang đã được các bà, các mẹ, các chị hướng dẫn việc may vá, thêu thùa, làm các đồ dùng sinh hoạt và trang phục cá nhân. Để làm được một đôi giày thêu tốt phải trải qua nhiều bước: chuẩn bị nguyên liệu, lựa chọn kiểu giày phù hợp với đối tượng sử dụng để cắt và khâu đế giày, tạo hình hoa văn và thêu hoa văn trên thân giày, khâu giáp thân giày, quai giày với đế để hoàn chỉnh giày.

Nguyên liệu chính để chế tác một đôi giày gồm có: vải, mo tre, chỉ khâu, chỉ thêu, keo dán, giấy bản và kèm theo các dụng cụ như: kéo, dao nhỏ, kim khâu, kim thêu, cục sáp ong khô. Vải để khâu đế giày và thân giày phải là loại vải dày, dai, có độ bền (thường dùng vải dệt thủ công của người Thái). Chỉ khâu được làm từ vỏ một loại cây rừng (cây Mà), là loại sợi săn chắc, dẻo, dai, ít thấm nước. Từ thân cây Mà được chặt về, người Xạ Phang tước bóc bỏ phần lõi, lấy phần vỏ ngoài, giã cho dập và mềm, sau đó cho vào nồi nước luộc rồi phơi khô. Các sợi mỏng được xé nhỏ, nối với nhau và bện lại thành sợi nhỏ quấn vào thoi sợi và có thể sử dụng khi cần thiết. Để quá trình khâu giày sợi chỉ luôn trơn, bóng, không bị đứt và không thấm nước, người Xạ Phang thường trà sợi chỉ vào cục sáp ong khô trước khi thực hiện việc khâu giày. Đối với loại keo dán đế giày được người Xạ Phang làm ra từ củ của một loại cây rừng (cây Mùa Rỉ). Củ của cây Mùa Rỉ được đào về, rửa sạch, gọt bỏ vỏ, lấy phần ruột, giã nhuyễn, hòa vào nước và lọc hết bã thô, cho lên nồi nấu tạo thành hồ đặc như keo dán.

Chỉ thêu hoa văn trên giày phải là loại chỉ tự nhiên với khá nhiều màu sắc như đỏ, hồng, xanh, vàng, ít phai màu, thường được mua ở các phiên chợ hoặc của các tiểu thương buôn bán tạp hóa.

Để làm đế giày, người thợ lấy mo tre già, khô, mang về phơi, ép phẳng, cắt theo hình bàn chân và khâu thành đế giày. Mỗi đế giày thường được ghép khoảng 5 lớp mo, mỗi lớp bọc một lần vải dày và dai để tạo độ dày dặn, cứng cáp, đảm bảo bền chắc. Các lớp mo được dán với nhau bởi một lớp keo tự làm của người Xạ Phang. Các lớp mo tre làm đế giày được khâu chắc chắn với nhau bằng những sợi chỉ khâu đã được trà qua sáp ong khô để chống thấm nước. Mặt dưới của đế giày được lót bằng vải trắng; mặt trong được lót bằng một lớp vải màu tùy theo ý thích của người chế tác và được khâu chắc chắn với đế giày. Nhờ đó, giày thêu của Xạ Phang bền và chắc, có thể sử dụng được lâu dài.

Thân giày được cắt định hình từ vải trắng, mặt ngoài của thân giày được táp một lớp vải màu làm nền thêu trang trí các mảng hoa văn sặc sỡ. Đối với giày nữ, thân giày là một miếng vải hình vòng cung gắn quanh đế dày, quanh thân dày đều kín, điểm giáp lai duy nhất là phần tiếp giáp giữa hai điểm cuối của vòng cung, gặp nhau tại phần gót giày. Sau khi hai đầu thân giày được khâu liền với nhau, người chế tác khéo léo táp thêm một miếng vải đã được thêu hoa văn phủ lên vị trí tiếp giáp vừa có tác dụng trang trí vừa tạo sự chắc chắn cho đường tiếp giáp để giày được bền, đẹp hơn. Hoa văn thường là thêu một bông hoa lớn nổi bật hơn những bông xung quanh, tạo điểm nhấn chính trên thân giày. Như vậy, thân giày dành cho nữ có đặc điểm kín mũi, nhỏ gọn, thanh thoát, kín đáo. Đối với giày nam, thân giày hở một phần phía trước và hai bên, phần gót và thân sau liền, tạo dáng vẻ khỏe khoắn, năng động, phù hợp các hoạt động thể hiện sự mạnh mẽ. Hoa văn được thêu dàn trải đều khắp trên thân, không có điểm nhấn chính. Điểm thu hút chính trên đôi giày nam là hai mảng hoa văn khác nhau, mảng thân ôm quanh gót và mảng từ mu bàn chân sang hai bên và đến đầu các ngón. Trên thân giày, người Xạ Phang khéo léo tạo thêm nút cài bằng vải phía trên mu bàn chân giúp người đi giày dễ dàng cài hoặc tháo khi sử dụng.

Giày của người Xạ Phang đều được thêu hoa văn. Cách thêu và hoa văn chính được thêu trên giày nam hay nữ đều như nhau, gồm các loại hoa lá cách điệu, thực vật thân leo, một số hoa văn hình học như ô trám lồng, zích zắc, sóng lượn, răng cưa… Hoa văn chủ yếu gồm hoa 6 cánh và 4 cánh được thêu đan xen nhau, xung quanh là hình các loại lá cây được cách điệu, các cây thân leo. Hoa văn hình học được thêu trên thân giày chủ yếu trang trí ở phần viền xung quanh, tạo thành khung cho mảng hoa văn chính là hoa và lá. Người thêu sử dụng các loại chỉ thêu có màu sắc đậm, tạo nên những mảng hoa văn trang trí nổi bật phần nào thể hiện cá tính mạnh mẽ và sự nồng nhiệt của người Xạ Phang, đồng thời thể hiện sự tự tin, lạc quan, luôn hướng tới những niềm vui, những điều may mắn trong cuộc sống. Để thêu được hoa văn trên thân giày, nghệ nhân dùng giấy bản và chiếc kéo nhỏ, khéo léo cắt tạo hình các hoa văn, họa tiết theo ý thích của mỗi người, sau đó đặt dải hoa văn đã cắt lên phần vải đã được lựa chọn làm thân giày và thêu theo hình đã có với các gam màu xanh, đỏ, vàng, hồng… Việc tạo hình hoa văn trước khi thêu chỉ thực hiện đối với các hoa văn chính là hoa, lá cách điệu, còn các hoa văn hình học sẽ được thêu trực tiếp trên thân giày. Những nghệ nhân tài năng có thể thêu mà không phụ thuộc vào các hình hoa văn cắt sẵn bởi mọi họa tiết, hoa văn đã được ghi nhớ sâu trong tâm trí và cứ thế thêu lên.

Khâu, ghép thân với đế giày là công đoạn cuối để hoàn thiện giày. Nghệ nhân dùng loại chỉ to, chắc, những đường khâu giấu ẩn rất khéo, không lộ và thô, đảm bảo thẩm mỹ, góp phần tạo nên sản phẩm hoàn hảo.

Giày được thêu hoa văn sặc sỡ, độc đáo, thể hiện sự tinh tế, khéo léo và tư duy sáng tạo của người phụ nữ Xạ Phang được gửi gắm trong từng họa tiết hoa văn, từng đường kim mũi chỉ trên những đôi giày thêu thủ công. Đây là di sản văn hóa đã và đang được người Xạ Phang giữ gìn, bảo lưu, trao truyền rất tốt góp phần giữ gìn, phát huy di sản văn hóa các dân tộc trong tỉnh Điện Biên.

Nghề làm giày của người thêu của người Hoa Xạ Phang được thực hành, trao truyền trong gia đình, cộng đồng không chỉ đơn thuần là truyền dạy tri thức, kỹ năng nghề nghiệp mà còn ẩn chứa những thông điệp nhân văn sâu sắc về lối sống tích cực, chăm chỉ, tính nhẫn nại, kiên trì của người Xạ Phang, nó chính là các yếu tố nội sinh để đến nay di sản đang được giữ gìn, bảo tồn rất tốt và có tác động tích cực đến việc giáo dục thế hệ trẻ, góp phần gắn kết cộng đồng, bảo tồn những tinh hoa văn hóa dân tộc. Chế tác và thêu các họa tiết hoa văn sặc sỡ, độc đáo, thể hiện sự tinh tế, khéo léo và tư duy sáng tạo của người phụ nữ Xạ Phang. Mỗi đôi giày hoàn thiện trở thành một tác phẩm nghệ thuật, trong đó ẩn chứa tình cảm, tâm tư và những ước mơ, hy vọng của người tạo ra nó. Nghề làm giày thêu có giá trị kinh tế, trở thành sản phẩm OCOP (xã Tả Sìn Thàng, huyện Tủa Chùa) nâng cao giá trị của đôi giày, nâng cao đời sống của cộng đồng. Sản phẩm giày thêu của người Xạ Phang phát triển, tạo mối liên kết đảm bảo ổn định về sản phẩm và chất lượng sản phẩm, gia tăng các chuỗi giá trị cho sản phẩm, đặc biệt là về lĩnh vực di sản văn hóa của người Xạ Phang.

Với giá trị tiêu biểu, Nghề làm giày thêu của người Hoa Xạ Phang được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 829/QĐ-BVHTTDL ngày 09/3/2021./.

 

http://dsvh.gov.vn/nghe-lam-giay-theu-cua-nguoi-hoa-xa-phang-3387
































 

MÚA CỦA NGƯỜI KHƠ MÚ

Người Khơ Mú sinh sống ở thành phố Điện Biên Phủ, huyện Điện Biên, huyện Điện Biên Đông, huyện Mường Ảng, huyện Tuần Giáo, huyện Tủa Chùa, huyện Mường Chà, huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên, đã sáng tạo và thực hành nhiều điệu múa gắn với nghi lễ, đời sống sinh hoạt của cộng đồng. Các điệu múa của người Khơ mú (còn gọi là Tẹ) nổi bật như: múa chiêng kết hợp với ống tre, ống nứa (Tẹ ôm đing); múa đánh đao (Tẹ tăm đao); múa sạp (Tẹ khiêps); múa chọc lỗ tra hạt (Tẹ chư mon); múa lắc eo (Tẹ cưn viết guông); múa cá lượn (Tẹ gănr cạ); múa vòng tròn (Tẹ kưn vong do), múa đuổi chim...

Tẹ ôm đêng hoặc Tẹ ôm đing (múa ống tre, ống nứa), có tên gọi khác là múa tăng bẳng, tăng bu, Tẹ prin (múa trống), Tẹ prapang (múa chiêng), múa dỗ ống, múa lên nhà mới, múa trong đám cưới.

C:\Users\SPRING\Desktop\ảnh vhtt\84_khomu.jpg

Theo truyện cổ của người Khơ mú, điệu múa ra đời từ việc dùng ống nứa đi lấy nước, dành cho nam múa. Những ống tre/nứa có đốt to, thẳng, dài, bên trong rỗng nhằm tạo âm thanh trong quá trình múa dỗ ống. Khi múa ở trong nhà, người múa cầm 02 tay 2 ống dỗ - rập xuống sàn nhà. Nếu múa ở ngoài, người ta kê một tấm ván dài đặt trên mặt đất để dỗ ống tạo âm thanh, cũng có khi người múa chỉ sử dụng 01 ống kết hợp những động tác tay không và sự uốn lượn mềm mại của cơ thể để múa. Hình thức múa có thể là nhún dỗ ống tại chỗ, nhún xoa ống, nhảy tiến lùi, nhảy xoay tại chỗ, dỗ ống nhảy ngang... Nhịp dỗ ống, người Khơ Mú thường dỗ 03 nhịp liên tiếp rồi nghỉ và cứ lặp lại như vậy.

Một số địa phương thực hành điệu múa thường sử dụng nhạc cụ là chiêng kết hợp với tăng bẳng, tăng bu, nhưng cũng có nơi kết hợp cả trống, chiêng và ôm đing trong quá trình múa. Người Khơ Mú thường múa trong dịp lễ hội, khi đón dâu về nhà trai và khi lên nhà mới. Trong trường hợp múa chiêng khi lên nhà mới hoặc trong đời sống sinh hoạt thì trước khi gõ chiêng để múa, chủ nhà phải làm lý, làm cúng xin phép tổ tiên, thần linh thổ địa cho phép gia đình tổ chức múa vui ở trong nhà. Khi dùng chiêng mới, người Khơ Mú làm lễ gọi hồn cho chiêng và xin phép thần linh,với quan niệm nếu không xin phép thì sẽ mang lại điều xấu cho gia đình và bà con dân bản. Điệu múa Tẹ ôm đing thể hiện sự hài hòa giữa nam và nữ, họ sóng đôi cùng múa một cách nhịp nhàng, đó còn là sự kết hợp giữa âm và dương, điệu múa mang ý nghĩa phồn thực, cầu cho sinh sôi nảy nở, mùa màng bội thu.

Múa Tăm đao (Tẹ Tăm đao)

Theo tiếng Khơ Mú, "tăm" là đánh, "tẹ" là múa, "tăm đao", "tẹ tăm đao" là múa đánh đao (tay đánh đao kết hợp với ngôn ngữ hình thể tạo thành điệu múa).

Múa Tăm đao là điệu múa được dành cho nữ giới, đạo cụ sử dụng là Tăm đao. Múa Tăm đao bắt nguồn từ việc người phụ nữ cầm đao để đánh trong quá trình đi nương, đi rừng, tạo ra những âm thanh vui tai để quên đi sự mệt nhọc. Trong lễ cầu mưa, lễ cầu mùa, người phụ nữ di chuyển từ nhà thầy cúng đến nương đồi - vị trí được chọn để thực hiện các nghi lễ, vừa đi vừa đánh đao tạo âm thanh để tiếp thêm niềm vui, sự hứng khởi cho những người tham gia thực hành nghi lễ.

Tăm đao được làm từ thân của cây nứa nhỏ, không quá già, muốn sử dụng được lâu bền và tạo âm thanh vang và hay thì phải được cất giữ trên gác bếp, trước khi dùng mang ngâm vào nước để đao giãn nở cũng như giữ được độ tươi của đao. Thân nứa một đầu giữ lại phần mấu, đầu kia bỏ mấu, phía trên đầu của mấu người ta đục 02 lỗ nhỏ nằm ở hai bên đối xứng nhau, khi đánh ngón tay cái đặt lên phần lỗ ở thân trên, ngón tay trỏ hoặc ngón giữa đặt ở vị trí lỗ phía bên dưới để điều chỉnh âm thanh, giai điệu khi múa Tăm đao. Phần phía đầu không có mấu người ta vát nhẹ hai bên thân ống tạo thành trạc hình chữ “U” dài khoảng 25 - 30cm, giữa hai cánh trạc có xẻ một khe nhỏ vào thân ống để kẹp một sợi chỉ nhỏ, sợi chỉ này cũng có tác dụng điều tiết âm thanh. Khi đánh người ta gõ phần gốc của cánh trạc vào lòng bàn tay để hai cánh trạc rung tạo thành âm thanh. Phụ nữ Khơ Mú đánh đao thường từ 02 đến 03 nhịp vào lòng bàn tay rồi nhún chân tùy thuộc vào việc diễn tả tâm trạng buồn hay vui; trường hợp biểu diễn với không khí vui tươi, phấn khởi thường có tiết tấu nhanh với 03 nhịp liên tiếp (02 nhịp kép, 01 nhịp đơn), kết hợp với nhún chân, lắc eo. Khi múa có thể dùng đao to và đao bé (đao mẹ và đao con), đao mẹ sử dụng tạo ra âm thanh chính. Việc sử dụng đao lớn bé khác nhau còn phụ thuộc vào đội hình múa có khả năng sử dụng đao thành thạo hay không, nếu đội hình biết đánh đao tạo âm thanh đồng đều kết hợp những động tác múa thì các đao được lựa chọn để múa là đều nhau; trường hợp đội hình múa sử dụng đao không đồng đều thì có một đao mẹ do một người chính điều khiển đội múa. Múa tăm đao là sự kết hợp giữa đánh đao và tạo ra các tuyến múa, chân nhún nhịp nhàng, tay múa và uốn người, lắc hông mềm mại (tức động tác múa ong eo).

Múa chọc lỗ tra hạt (Tẹ chư mon)

Thực hành trong Lễ tra hạt, sử dụng đạo cụ là những cây gậy (dùng để chọc lỗ) để cầu mong các thần linh phù hộ cho dân bản vào vụ mùa mới bội thu. Điệu múa hòa cùng tiếng trống, chiêng thể hiện sự giao hòa âm dương, thức dậy những khát vọng về một cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Khi điệu múa bắt đầu, đàn ông khỏe mạnh đi trước, vừa nhún nhẩy, vừa vung gậy chọc lỗ; phụ nữ nối bước đi sau hoặc cũng có khi dàn hàng song song một cặp nam và nữ múa kết hợp. Đây là điệu múa đôi có sự hòa quyện giữa nam và nữ - tượng trưng cho sự giao hòa âm và dương, đất và trời khiến cho hạt giống nảy mầm, cây cối sinh sôi, phát triển. Động tác múa được thực hiện một cách nhịp nhàng, cả nam và nữ cùng lấy chân phải làm trụ, chân trái nhấc lên đưa về phía trước nhằm giữ thăng bằng cho cơ thể; tay phải của người đàn ông cầm đầu trên của chiếc gậy, tay trái cầm ở chính giữa và đặt chéo chiếc gậy ở ngang người, đầu dưới của chiếc gậy dùng để dỗ xuống đất. Lúc này chân phải của cả nam và nữ cùng múa nhảy lò cò 03 lần kết hợp với động tác tay - đối với nam thì dỗ đầu dưới của gậy xuống đất (ở bên trái) 03 lần, nữ ở phía sau hoặc có khi dàn hàng ngang bên cạnh người đàn ông, tay phải nắm hạt, tay trái ném hạt xuống lỗ mà người đàn ông vừa chọc. Kết thúc 03 nhịp chọc lỗ tra hạt, đôi nam nữ múa sẽ dừng nghỉ một nhịp rồi đổi bên. Tiếp đến là chân trái nam và nữ làm trụ nhảy lò cò 03 nhịp, tay đưa sang phải để chọc lỗ, tra hạt. Cứ như vậy, nam đi trước chọc lỗ, nữ nối tiếp đi sau tra hạt giống, chân gạt nhẹ như lấp đất, từng cặp nam nữ múa nhịp nhàng, uyển chuyển, hài hòa trong tiếng trống chiêng rộn ràng. Âm thanh của nhạc khí phát ra từ những chiếc gậy như đánh thức đất trời, khích lệ những người tham gia lao động. Sau mỗi mùa vụ trồng lúa nương, cây gậy chọc lỗ này được đặt trang trọng trên gác bếp để gậy thêm cứng, màu thêm bóng và tránh mối mọt.

 Múa sạp (tẹ khiêps)

Tiếng Khơ Mú gọi múa sạp là Tẹ mặc khriếp, trong đó "tẹ" là múa, " mặc khriếp " là sạp. Theo truyền thống và quan niệm trước đây, người Khơ Mú thường múa sạp trong Lễ cầu mưa. gắn với nghi lễ cầu mưa là bởi cây sạp dùng để múa được làm từ những cây tre, biểu tượng cho mùa măng mọc, muốn măng mọc thì phải cầu cho mưa xuống. Hơn nữa, trong múa sạp có sạp cái, sạp con, có nam, có nữ tham gia múa đã hội tụ các yếu tố âm - dương và sự sinh sôi nảy nở đại diện cho Lễ cầu mưa.

Ngày nay, múa sạp không chỉ tổ chức trong Lễ cầu mưa mà còn thực hành trong Lễ cầu mùa, Lễ cúng bản hoặc các ngày vui của bản, trong các lễ hội, ngày hội của tỉnh, của địa phương tổ chức. Múa sạp trong lễ cầu mùa hay thời gian hạn hán cũng để cầu mưa cho cây lúa đơm bông, kết hạt. Khi các cô gái đưa bước nhảy sạp, một người già có uy tín trong bản sẽ đi té nước vào tất cả mọi người, vừa té vừa cầu trời cho mưa xuống.

Để múa sạp, cần chuẩn bị 2 cây tre to, thẳng và dài làm sạp cái và nhiều cặp sạp con bằng tre nhỏ hay nứa để tạo thành dàn sạp. Người múa chia ra một tốp đập sàn và một tốp múa, mỗi tốp có đội hình là những đôi trai gái. Đối với tốp đập sàn, mỗi đôi trai gái ngồi hai đầu một cặp sạp con rồi gõ, cứ ba lần gõ sạp con lên sạp cái thì một lần gõ hai sạp con vào nhau tạo ra âm thanh, tiết tấu cho múa. Đối với tốp múa, lần lượt từng cặp trai gái nhảy vào dàn sạp, có khi người múa chỉ là nữ, họ nắm tay nhau để múa. Động tác khi lướt nhẹ nhàng, uyển chuyển, lúc dồn dập. Đội hình biến đổi ngang, dọc, chéo, tròn tất cả đều diễn ra trên dàn sạp nhưng vẫn chú ý đúng nhịp và hai chân không bị kẹp khi hai sạp con chập vào nhau.

Múa Ong eo - múa lắc eo (Tẹ cưn viết guông)

Thường diễn ra vào các dịp lễ tết, hội hè, mừng cơm mới hay khi kết thúc mùa vụ. Múa Ong eo của người Khơ mú là điệu múa dành cho nữ giới với động tác chủ yếu là lắc hông tại chỗ, lắc hông ngồi, lắc hông bước sang ngang, lắc hông di động, uốn lượn eo, xoay dần xuống rồi xoay dần lên một cách uyển chuyển, nhịp nhàng, mô phỏng các động tác trong lao động của người dân. Điệu múa biểu trưng cho mối cộng cảm giữa con người với con người, con người với thiên nhiên, đặc biệt là để tôn vinh vẻ đẹp của người phụ nữ. Từng nhịp điệu đều liên quan mật thiết với tín ngưỡng cầu mùa và khát vọng về tình yêu đôi lứa.

Múa cá lượn (Tẹ gănr cạ)

Thường được múa trong các dịp lễ hội, ngày vui của gia đình hoặc ngày vui của cộng đồng. Đây là điệu múa xuất phát từ việc người Khơ Mú đi bắt cá, từ những động tác đuôi cá, vây cá chuyển động và sáng tác ra điệu múa, đặt tên là cá lượn. Động tác của múa cá lượn chủ yếu được thể hiện qua việc một tay cầm ống tre, chân nhún, nghiêng mình và dùng tay còn lại đưa lướt mềm mại, nhẹ nhàng từ phía trước dọc theo cơ thể đưa tay ra sau rồi đổi bên với động tác tương tự. Âm thanh, nhịp điệu cho múa cá lượn được tạo ra từ những ống tre. Tay cầm ống tre dỗ xuống đất 03 nhịp cho tay kia thể hiện động tác cá lượn.

Múa đuổi chim

Là điệu múa có sự kết hợp giữa nam và nữ, thường được thực hành trong Lễ cầu mùa. Nam và nữ múa xen kẽ, đi theo vòng tròn, chân phải làm trụ, chân trái đưa thẳng về phía trước, tiếp đó chân phải nhảy lên 03 bước kết hợp với 02 bàn tay úp vào nhau, lấy cổ tay làm trụ, đầu ngón tay đặt ngược chiều nhau, xòe hình cánh quạt đặt ở phía trước - ngang đầu người múa. Khi chân phải nhảy lên thì tay phải hướng về phía trước. Ngược lại, khi chân trái làm trụ nhảy lên thì chân phải đưa thẳng về phía trước, tay ở trên cũng xoay chuyển sang tay trái hướng về phía trước. Âm nhạc hỗ trợ cho điệu múa này là các nhịp trống, chiêng, mỗi động tác múa được thể hiện trong 03 nhịp rồi chuyển động tác hoặc đổi bên. Múa đuổi chim thể hiện mong muốn ngăn chặn chim muông và các con vật khác để bảo vệ mùa màng.

Múa vòng (Tẹ kưn vong do)

Đây là điệu múa tương đối quen thuộc của rất nhiều dân tộc vùng Tây Bắc, đặc biệt tiêu biểu đối với người Thái. Tuy nhiên, người Khơ Mú cũng coi múa vòng (tức xòe vòng theo tiếng Thái) là một điệu múa truyền thống của dân tộc mình. Múa vòng (Tẹ kưn vong do) được diễn ra trên một khoảng sân rộng, mọi người nắm tay nhau cùng bước theo nhịp xòe, cùng xoay một chiều theo nhịp trống, chiêng. Múa vòng thường di chuyển theo chiều kim đồng hồ - từ trái qua phải. Động tác của múa vòng bắt đầu từ chân trái bước chéo lên, chân phải bước theo, tay đưa lên cao rồi nhún.  Nhịp tiếp theo là chân phải bước xuống, chân trái rút về, tay hạ xuống thấp rồi nhún. Múa vòng thể hiện tình đoàn kết, tính cộng đồng cao bởi không phân biệt tuổi tác, giới tính. Niềm vui và hạnh phúc của cộng đồng như được thăng hoa khi tham gia múa vòng.

Múa của người Khơ Mú hiện đang được thực hành trong các lễ hội, sinh hoạt văn hóa cộng đồng của người Khơ Mú và cả trong nghệ thuật múa chuyên nghiệp. Nó thể hiện bản sắc văn hóa tộc người, chứa đựng tri thức dân gian của cộng đồng về ý nghĩa, giá trị của các điệu múa; góp phần bảo tồn lễ hội truyền thống, tập quán xã hội và tín ngưỡng, trang phục truyền thống của người Khơ Mú. Các điệu múa thể hiện khát vọng về tình yêu đôi lứa, cầu cho mưa thuận gió hòa, cuộc sống no ấm, mùa màng bội thu. Điệu múa, âm nhạc, đạo cụ phản ánh sự sáng tạo và tri thức của người Khơ Mú; khơi nguồn cảm hứng để sáng tạo ra những tác phẩm, công trình nghiên cứu, sáng tạo nghệ thuật có giá trị. Thực hành, truyền dạy các điệu múa còn thể hiện tinh thần đoàn kết, tính cộng đồng cao, là nơi khơi nguồn cho tình yêu đôi lứa. Múa của người Khơ Mú góp phần tăng cường giao lưu văn hoá giữa các vùng miền, các quốc gia, có thể khai thác, phát huy giá trị để phát triển du lịch văn hóa, du lịch cộng đồng.

Với giá trị tiêu biểu, Múa của người Khơ Mú được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 828/QĐ-BVHTTDL ngày 09/3/2021./.

 

http://dsvh.gov.vn/mua-cua-nguoi-kho-mu-3388

























 

HÒ THUỐC CÁ

Huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình có một bộ phận người Kinh với hơn 35 ngàn nhân khẩu, tự gọi mình là người Nguồn, có ngôn ngữ riêng, có sắc thái văn hóa độc đáo và văn nghệ dân gian khá phong phú như các thể loại dân ca: hò thuốc, hát đúm, ví, hát nhà trò, hát ru,…, trong đó, làn điệu Hò thuốc cá (hò thuốc) được xem là làn điệu dân ca đặc trưng của người Nguồn. Hò thuốc cá có liên quan mật thiết đến lao động sản xuất, mang đậm nét riêng, bắt nguồn từ nghề chế thuốc thả xuống khe, suối để bắt cá.

C:\Users\SPRING\Desktop\ảnh vhtt\img1937-16170980328651959108566-1617153194570-16171531947002125796864-1200x800.jpeg


Vào mùa Đông và mùa Xuân, người Nguồn đi từng đoàn lên rừng bới rễ cây tèng (thuộc họ dây leo, rễ dạng củ, có chứa độc tố), về đập dập, trộn với đất ướt, lấy bùn trát kín, ủ lại, rồi chất củi đốt xung quanh. Sau đó, họ mang thuốc ra suối, khe, tìm chỗ có nhiều cá nhất, chọn một chỗ cao ở đầu suối, khe, lấy đá xếp vòng tròn để tạo thành một cái cối. Người dân (cả nam và nữ) cùng giã thuốc một lúc, cùng giơ lên, cùng hạ xuống, nên tùy vào số người giã thuốc mà xếp cối rộng, hẹp. Xếp cối xong, họ lấy rễ cây tèng đã được ủ chín bỏ vào cối, rồi chặt những cây rừng thẳng, dài khoảng 1,5m, to vừa tay cầm, vát nhọn một đầu để làm chày giã thuốc. Họ giã cho nước rễ cây tèng chảy ra, hòa vào dòng nước, làm cho cá bị mờ mắt mà chết, nổi lên mặt nước để họ có thể bắt cá dễ dàng. Ngoài loại rễ cây tèng, người ta cũng dùng rễ cây hôi hôi và lá cây cơn cơn (mọc bên suối) để làm thuốc đánh cá, hai loại cây này thường được sử dụng vào mùa hạ, mùa thu, được lấy về sử dụng ngay chứ không ủ chín như rễ cây tèng. Có một điều đặc biệt là các loại cây có độc tố này chỉ làm cho riêng một số loài cá bị say, bị chết, nhưng lại vô hại đối với người và các loài thủy sản khác (như cá lóc, cá chạch, lươn, ốc…). Khi cá bị bắt hết, độc tố của rễ cây cũng không còn ảnh hưởng đến dòng nước nữa!

Hò thuốc cá có nhịp điệu linh hoạt, khẩn trương theo nhịp chày giã thuốc, dễ hát, dễ thuộc, mang tính tập thể cao, không khí rộn ràng,… nên ai cũng có thể hò được. Chỉ cần có người xướng lên và có người cùng hòa nhịp để xô, là người ta lập tức bị cuốn vào một cách tự nhiên, không e dè, câu nệ, và cũng từ điệu hò ban đầu, với nội dung chính gắn với công việc giã thuốc cá, dần dần, người ta còn đưa vào nhiều nội dung khác, xuất hiện thêm những dị bản khác, đó là đối đáp giao duyên nam nữ rất tình tứ.

Trong Hò thuốc cá ở huyện Minh Hóa, cụm từ “hôi lên là hôi lên” xướng lên để tất cả cùng xô, nên có khi, người ta cũng gọi Hò thuốc cá là “Hò hôi lên” hay là “Hò thuốc” hoặc “Đi thuốc”.

Trong Hò thuốc cá, người ta quy ước rõ kiểu cách tham gia của từng thành viên. Bao giờ cũng có “hò cái” và “hò con”. Khi hò, hò cái là người “lĩnh xướng”, còn hò con là người “xố”. Mỗi câu hò thường thì chỉ có một người lĩnh xướng, còn người xố thì có thể một hoặc tất cả đám đông có mặt, người ta gọi là “hội xố”. Điều này thể hiện tính quần chúng của diễn xướng và thu hút đám đông rất mạnh mẽ, tạo nên hiệu ứng rộn ràng.

Cách hò nguyên sơ và đơn giản nhất trong Hò thuốc cá với kết cấu 6/8 là người hò cái hò hết câu 6, tất cả hò xố: "hôi lên là hôi lên", người hò cái tiếp tục hò hết câu 8, rồi tất cả hò xố: "hôi lên là hôi lên" để kết thúc một câu hò. Trong quá trình hát câu 6, câu 8, người ta có thể thêm những tiếng đệm, hư từ, luyến láy, kết hợp với tuyến giai điệu mềm mại, lượn sóng, hình thành một bài hát trọn vẹn. Câu xô vẫn giữ số từ đều đặn (5 từ), nhưng câu kể thì số từ có thay đổi (câu kể đầu chỉ có 9 từ, câu kể sau lên tới 12 từ), tuy vậy, vẫn không làm thay đổi hay xáo trộn tốc độ hay nhịp giã của chày.

Bài được hát ở điệu Sol Cung, tầm cữ của bài trong phạm vi quãng 6. Trên cơ sở lòng bản, tùy theo lời ca, hoặc tâm trạng của người hát, có thể có thêm những luyến láy, tô điểm,… phần nào làm cho cao độ của bài có sự thay đổi (tạo ra những dị bản) nhưng không đáng kể.

Hò thuốc cá từ lúc nguyên sơ có giai điệu khá đơn giản, ít luyến láy, nhưng tiết tấu rất khoẻ, dứt khoát. Một điểm độc đáo ở điệu hò là: tất cả mọi người cùng làm một động tác đưa chày lên và giã chày xuống rập ràng, cùng một thời điểm, đúng vào lúc hát ở phách mạnh trong ô nhịp 2/4 của bản nhạc (kể cả người hò cái và tập thể hò xố). Về phần lời ca, có nội dung phong phú như: cầu nguyện để thuốc được nhiều cá, bình yên trở về hoặc đối đáp nam nữ tỏ tình với nhau... Khi hò, người ta có thể tăng thêm từ trong câu lục bát theo hình thức nhắc lại hoặc thêm các từ đệm như: chừ, mà, rồi, ơ...

Trong một số trường hợp, người ta cũng có thể hò theo kiểu các kết cấu khác nữa, tuỳ thuộc vào bối cảnh, không gian diễn xướng và nội dung câu hò để ngắt nhịp, ngắt số từ trong câu hò cho thích hợp với người hò cái và người xố, như kết cấu 4/2 - 4/2/2, 4/2 - 6/2, 2/2/2 - 2/2/2/2,... Ví dụ, trong câu 6, người hò cái chỉ hò 4 từ đầu của câu, rồi ngắt để hò xố: "hôi lên là hôi lên" và sau đó hò tiếp 2 từ còn lại để hò xố: "hôi lên là hôi lên" rồi mới hò tiếp vào câu 8. Trong câu 8 cũng vậy, có khi người hò cái hò 4 từ một, cùng với từ đệm, tất cả hò xố: "hôi lên là hôi lên", hoặc hò 2 từ một, cùng với từ đệm để hò xố "hôi lên là hôi lên" kết thúc cho một câu hò (trường hợp này, trong câu 8 đã có đến 4 lượt xố con "hôi lên là hôi lên" mới kết thúc câu hò),...

Không giống với một số điệu hò lao động (ở trên cạn) khác ở khu vực Bình Trị Thiên, Hò thuốc cá có tiết tấu vừa phải, thậm chí còn thong thả nữa. Giai điệu của bài theo hình lượn sóng, mềm mại, ít có quãng nhảy xa, tạo cho Hò thuốc cá huyện Minh Hóa có sắc thái nhẹ nhàng, dung dị, nhưng không kém phần khỏe khoắn, rộn ràng, sinh động (điều này có thể là do câu xô có nốt Fa, với chức năng là âm tô điểm, và nốt Sol móc đơn liền kề nhau, ẩn chứa sự dứt khoát, vừa như thúc giục, thôi thúc, lại vừa dịu dàng, duyên dáng), làm cho tất cả những ai tham gia vừa giã chày, vừa hò mà không bị ảnh hưởng đến sức khỏe cũng như công việc. Người ta có thể hò liên tục, không ngưng nghỉ với nhiều khổ thơ lục bát có những nội dung khác nhau, đến khi nào cá nổi lên, họ mới ngừng công việc đâm giã và hát hò để bắt cá.

Hò thuốc cá còn được sử dụng vào những công việc lao động tập thể nặng nhọc, như: đầm đất thuỷ lợi, giao thông, đầm nền nhà, sân phơi...

Ngày nay, Hò thuốc cá được diễn xướng trong các cuộc hội hè, đình đám như lễ hội (đặc biệt là trong lễ hội “Chợ Rằm tháng Ba”, lễ hội lớn nhất của huyện Minh Hóa), đám cưới và cả khi ru con,... Phần hò và xô vẫn được diễn xuất như khi hò trong lao động, chỉ khác động tác giã tèng được thay bằng nhịp vỗ tay của mọi người trong cuộc vui.

Do không gian để hát điệu hò thuốc dần dần được đưa về vùng dân cư, mang tính lễ nghi, trang nghiêm, khoan thai, nên âm nhạc của điệu hò thuốc cũng đã có những biến đổi nhỏ: hát chậm hơn, nhẹ nhàng hơn, luyến láy nhiều hơn, nên nghe uyển chuyển hơn và cùng một lúc ít người hát hơn so với những lúc lao động tập thể, như giã tèng bên suối hoặc đầm đất trên công trường thuỷ lợi, giao thông. Có lẽ vì vậy mà về tiết tấu, đặc biệt là phách mạnh, phách nhẹ cũng không phân biệt rõ ràng lắm. Nói đúng hơn là người hát có thể hát như nhịp 1/4, với tốc độ chậm, cường độ nhẹ nhàng, nghe có sức quyến rũ lòng người.

Hò thuốc cá phản ánh những tri thức dân gian cũng như đời sống tinh thần, được hình thành từ trong lao động sản xuất của người Nguồn ở huyện Minh Hóa; là sự phát triển, kế thừa và mang đậm nét văn hóa, lịch sử của vùng đất, con người Minh Hóa nói riêng và Quảng Bình nói chung. Hò thuốc cá phản ánh sinh động cuộc sống của người dân địa phương; diễn xướng và lời ca thể hiện tính chân, thiện, mỹ, tình yêu đất nước, đạo lý nhân nghĩa. Hò thuốc cá có giá trị về nghệ thuật và khoa học, mang tính ước lệ về giai điệu nên người hò có thể tự do sáng tạo trong lựa chọn ngôn ngữ; sử dụng nghệ thuật ẩn dụ, hoán dụ, nói lái, nhân hóa hay sử dụng nhuần nhuyễn nhiều thành ngữ, tục ngữ, từ địa phương, từ đồng âm dị nghĩa; sự kết hợp lời thơ với tiếng đệm, tiếng lót, tiếng láy đạt đến đỉnh cao.

Với giá trị tiêu biểu, Hò thuốc cá được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 607/QĐ-BVHTTDL ngày 03/02/2021./.

http://dsvh.gov.vn/ho-thuoc-ca-3389

































 

NGHỆ THUẬT TRÌNH DIỄN CHIÊNG BA CỦA NGƯỜI HRÊ

Người Hrê sinh sống chủ yếu ở các huyện Ba Tơ, Sơn Hà và Minh Long, tỉnh Quảng Ngãi, tuy nhiên, chỉ có người Hrê ở huyện Ba Tơ mới biết trình diễn Chiêng Ba. Hầu hết các thôn làng có người Hrê sinh sống đều có các gia đình giữ gìn và biết sử dụng chiêng. Đặc biệt, tại xã Ba Vinh, người dân còn lưu giữ được đầy đủ các làn điệu chiêng Ba, phương thức trình diễn và nhiều lễ thức phản ánh sinh hoạt tín ngưỡng liên quan đến cồng chiêng của người Hrê.

C:\Users\SPRING\Desktop\ảnh vhtt\17-1.jpg

Với người Hrê, cồng chiêng không chỉ có giá trị vật chất hay được coi như những nhạc cụ khác, mà giá trị của nó cao hơn trong đó là mang yếu tố tâm linh. Cồng chiêng còn được coi như một tiêu chí để đo đếm độ giàu nghèo của gia đình và vị thế của gia chủ trong cộng đồng. Bộ chiêng được người Hrê cất giữ ở “góc thiêng” trong nhà, cũng là nơi đặt bàn thờ tổ tiên, nơi chỉ riêng chủ nhà hướng đầu vào khi ngủ.

Theo quan niệm của người Hrê, cồng chiêng cũng được xem là vật “có hồn”, được trời ban cho, dùng để cầu xin thần linh ban cho những đều tốt đẹp và che chở cho làng bản, gia đình có cuộc sống bình an, cây trồng, vật nuôi, mùa màng sinh sôi phát triển. Vì vậy, người Hrê rất coi trọng bộ chiêng được cất giữ trong gia đình và chỉ sử dụng trong các ngày lễ trọng của cộng đồng và gia đình sau khi thực hiện nghi thức cúng hồn chiêng trước khi sử dụng.

Đa số chiêng của người Hrê là dàn chiêng Ba chiếc có kích cỡ không bằng nhau. Chiếc lớn có tên là chinh Vông hay chinh cha, chiếc nhỏ hơn là chinh Tum hay chinh mẹ, chiếc nhỏ nhất là chinh Túc hay là chinh con. Đánh chiêng thì gọi là túc chinh. Khi trình diễn, chinh Vông được để nghiêng, chinh Tum để nằm, chinh Túc treo trên dây. Khi đánh thì chinh Tum đóng vai trò giữ nhịp, chinh Vông và chinh Túc theo giai điệu. Chinh cha và chinh mẹ đánh bằng nắm tay trần, chinh con đánh bằng nắm tay có quấn khăn để tiếng chiêng được ấm. Khi diễn tấu dàn chinh ba chiếc, nghệ nhân ngồi ở vị trí ổn định, không di chuyển. Nơi diễn tấu thường là đầu tra – gian khách phía trước của nhà sàn.

Để sử dụng cồng chiêng, sáng sớm ngày đầu năm, chủ nhân bộ chiêng thực hiện nghi thức cúng chiêng. Người Hrê dùng lá mâm xôi, bông cỏ may lót dưới lưng chinh làm vũ khí chống ác quỷ. Khi hành lễ, chủ nhà cắt tiết gà nhỏ vào bụng chinh, theo thứ tự: chinh Vông (chinh cha) trước, sau đến chinh K’tum hay chinh Tum (chinh mẹ) và chinh Túc (chinh con). Sau đó người ta cho chinh ăn bánh tét, uống nước suối nguồn, uống rượu cần, ăn lá ré, rồi chủ nhà đánh vang tiếng chinh để chào đón năm mới.

Theo các nghệ nhân cao tuổi, khi đánh chinh không được để đứt dây làm rớt chinh và tránh làm vỡ chinh. Chính vì thế, trước khi sử dụng chinh, người ta phải kiểm tra độ chắc của dây treo. Khi đổi các chiếc chinh cho nhau trong quá trình trình diễn, tránh va chạm, vì họ cho rằng chinh va chạm là “cắn nhau” sẽ không tốt. Đánh chinh để vui chơi thì đánh ở vị trí phía ngoài (lưng chinh), còn đánh trong lễ tục chia của cho người chết thì đánh phía trong (bụng chinh). Trong làng có người qua đời không được đánh chinh. Những người trong năm gặp rủi ro thì không được đánh chinh trong những ngày vui của dân làng. Ngoài những kiêng kỵ trên, khi sử dụng chinh không nên đánh quá mạnh tay sẽ làm cho “chinh khóc” là đều không tốt, chủ chinh không vừa ý và bị chê là không biết đánh chinh.

Trong số của cải chia cho người chết (tục chia của), nếu gia đình có chinh thì phải chia 1 trong 3 chiếc. Chiếc chinh chia cho người chết phải là chiếc chinh khác giới tính, nếu cha chết thì chia chinh mẹ, mẹ chết thì được chia chinh cha, con chết thì được chia chinh cha hoặc chinh mẹ. Chiếc chinh này được mang ra mộ cùng với những của cải khác để chia cho người chết. Trước lúc chôn chiếc chinh theo người chết, người ta dùng thanh gỗ cứng đánh thật mạnh vào phía trong chinh (bụng chinh) cho rạn nứt, nhằm báo cho linh hồn người chết biết người nhà đã chia cho 01 chiếc chinh.

Về kỹ thuật diễn tấu, người Hrê diễn tấu bằng tay (không dùng dùi), cộng với thủ pháp búng, gõ bằng ngón tay rất độc đáo. Người chơi chinh Túc đánh chinh tạo âm sắc đục, ấm do bàn tay phải đánh chinh được bọc vải, phối hợp với kỹ thuật bịt âm của bàn tay trái vào mặt trong của chinh (bụng chinh). Kỹ thuật bịt âm ở bàn tay trái luôn được thay đổi, có khi dùng cùi tay và bàn tay để bịt âm, tạo sự tương phản hấp dẫn cho bộ chiêng ba. Người chơi chinh Túc phải có kỹ thuật cao, có kinh nghiệm và thuộc nhiều bài bản để dẫn dắt cả dàn chinh hòa tấu nhịp nhàng, theo từng giai điệu.

Người chơi chinh Vông diễn tấu kết hợp kỹ thuật gõ bằng đầu các đốt ngón tay để tạo âm cứng, khỏe với kỹ thuật bịt âm bằng cả bàn tay trái ở mặt trong của chinh tạo âm thanh mềm dịu.

Người chơi chinh Tum dùng tay phải đánh vào mặt ngoài của chinh, tay trái bịt âm bằng cả cùi tay lên mặt ngoài của chinh. Chinh Tum là chinh có âm thanh cao nhất trong dàn chiêng.

Về bài bản, người Hrê có bốn điệu cơ bản: Chinh Năng, Chinh K’oa, Chinh H’lay và Chinh Tuguốc.

Điệu Chinh Năng (Túc Năng): Là điệu chinh phổ biến, nghe vui nhộn, thúc giục và trữ tình. Nó được sử dụng rộng rãi trong sinh hoạt của người dân như: vào dịp tết cổ truyền, lễ ăn trâu, lễ cưới… Khi diễn tấu, lúc đầu thường đánh thong dong, chậm rãi để chờ ổn định nhịp chiêng, sau đó tốc độ ổn định và nhanh hơn. Người đánh chiêng lâu, nếu mỏi tay thì có thể tranh thủ dừng để quấn lại khăn trên bàn tay, trong khi điệu chinh vẫn đang được diễn tấu.

Điệu Chinh K’oa (Túc K’oa) là điệu chinh mô phỏng âm thanh của tiếng ếch, nhái. Điệu Chinh K’oa rất khó diễn tấu, bởi tiết tấu, âm sắc, nhịp độ, nhịp điệu rất tinh tế. Người đánh chinh Vông phải dùng phần mềm nắm tay đánh một tiếng vào tâm chinh, sau đó dùng ngón tay (thường là ngón giữa) gõ (hoặc búng bằng ngón tay) tiếp hai tiếng. Người đánh chinh Tum cũng dùng phần mềm nắm tay đánh hai tiếng, sau đó dùng ngón tay gõ (hoặc búng bằng ngón tay) hai tiếng. Người đánh chinh Túc không dùng kỹ thuật gõ và búng.

Điệu Chinh H’lay (Túc H’lay) là điệu chinh mô phỏng âm thanh của thác đổ, nước suối chảy. Điệu chinh có có cấu trúc câu, đoạn khá rõ ràng, thường được diễn tấu trong sinh hoạt vui chơi, nhảy múa…

Điệu Chinh Tuguốc (Túc Tuguốc) là điệu chinh mô phỏng tiếng hót của một loài chim Tuguốc (tượng thanh), rất gần gũi với người Hrê. Điệu chinh Tuguốc có tính chất đối đáp, tự sự, tỏ bày.

Trong nghi lễ và sinh hoạt văn hóa, người Hrê có cách thức trình diễn đa dạng. Nếu là lễ hội vui chơi của cộng đồng và gia đình như: mừng nhà mới, đám cưới,... thì người ta thường trình diễn chiêng theo giai điệu ngẫu hứng, ứng tác và hòa tấu chiêng để tạo không khí vui tươi, phấn khởi trong gia đình và cộng đồng. Nếu là lễ hội của cộng đồng như lễ ăn trâu, cầu mùa... thì người ta diễn tấu chiêng theo các bài chinh cầu mùa như: điệu Túc K’oa (tiếng ếch nhái), Túc H’lay (tiếng thác đổ) và Túc Tuguốc (tiếng chim báo mưa).

Nghệ thuật trình diễn Chiêng Ba cho thấy mối quan hệ giao thương, trao đổi và giao thoa văn hóa của người Hrê với các tộc người khác trong khu vực. Nó lưu giữ những giá trị văn hóa, tín ngưỡng truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, gắn với các nghi thức tín ngưỡng, lễ hội của cộng đồng, khẳng định sắc thái văn hóa truyền thống độc đáo của tộc người Hrê ở Ba Tơ, thể hiện qua các nghi thức “cúng chiêng”, cách sử dụng, diễn tấu và sự sáng tạo của nghệ nhân đánh chiêng... Thực hành trình diễn Chiêng Ba phản ánh thế giới tự nhiên gắn bó với con người và cũng là lời cầu nguyện của con người đến với thế giới thần linh để cầu mong về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Những quan niệm và lễ tục của người Hrê liên quan đến sinh hoạt văn hóa cồng chiêng phản ánh một đời sống văn hóa tín ngưỡng khá đa dạng, phong phú, làm nên bản sắc văn hóa tộc người, góp phần bảo vệ và phát huy di sản cồng chiêng và khẳng định vai trò quan trọng của Nghệ thuật trình diễn Chiêng Ba đối với đời sống của người Hrê, quảng bá di sản đến công chúng nói chung.

Với giá trị tiêu biểu, Nghệ thuật trình diễn Chiêng Ba của người Hrê được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 609/QĐ-BVHTTDL ngày 03/02/2021./.

http://dsvh.gov.vn/nghe-thuat-trinh-dien-chieng-ba-cua-nguoi-hre-3379
































 

LỄ HỘI QUÁN THẾ ÂM, NGŨ HÀNH SƠN

Lễ hội Quán Thế Âm Ngũ Hành Sơn (còn gọi là Lễ hội Quán Âm) được tổ chức tại phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng. Lễ hội được hình thành từ việc Hòa thượng Thích Pháp Nhãn (người khai sơn chùa Quán Thế Âm) phát hiện một pho tượng Quán Thế Âm bằng thạch nhũ, tay cầm bình Cam Lồ, hoàn toàn thiên tạo, rất hoàn chỉnh, cao bằng người thật trong một hang động tại núi Kim Sơn - một trong năm ngọn núi thuộc Ngũ Hành Sơn. Hòa thượng đặt tên là động Quan Âm, đồng thời, ngài cho lập một ngôi chùa ngay sát hang động, tựa lưng vào núi Kim Sơn và đặt tên là chùa Quán Thế Âm để xưng tụng quả vị Quán Thế Âm. Kể từ đó, vào các ngày lễ vía của Quán Thế Âm, nhân dân địa phương và khách thập phương về đây lễ bái rất đông. Nhằm đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của Phật tử và cộng đồng địa phương, các vị Chư Tôn Đức Phật giáo lúc bấy giờ đã thống nhất chọn ngày 19 tháng Hai (Âm lịch) hằng năm (Ngày Đản sanh của Ngài), các chùa trên địa bàn Ngũ Hành Sơn hội tụ tại chùa Quán Thế Âm cùng tổ chức Ngày lễ vía Đức Phật Quán Thế Âm và xem đây như một chốn tổ thờ tự Ngài. Ngày 19/2/1956, nhân dịp tổ chức lễ khánh thành chùa Quán Thế Âm, để mở ra một sinh hoạt văn hóa tâm linh đồng thời khắc ghi một dấu mốc cho sự phát triển hoằng dương chánh pháp, Hòa thượng Thích Pháp Nhãn được sự cho phép của Giáo hội Phật Giáo lúc bấy giờ đã thành lập Hội phổ Quan Âm và trực tiếp làm trưởng ban tổ chức Ngày Lễ vía Quan Âm tại chùa, lấy tên gọi là Ngày hội Quan Âm, với sự tham gia của hàng chục ngàn Chư tăng ni tín đồ Phật giáo, nhân dân địa phương trong vùng và các nơi khác về tham dự. Từ đó, vào ngày 19 tháng Hai (Âm lịch) hàng năm, ngày hội lễ vía Quán Thế Âm được tổ chức. Đây chính là mốc đầu tiên tiên khởi nên Lễ hội Quán Thế Âm ngày nay.

 

C:\Users\SPRING\Desktop\ảnh vhtt\le-hoi-quan-the-am-3.jpg

Một thời gian dài do ảnh hưởng của chiến tranh và nhiều lý do khác, Ngày hội Quan Âm không tổ chức ở quy mô lớn mà chỉ gói gọn tại chùa Quán Thế Âm, cùng với sự tham gia của các chùa Phật giáo ở Ngũ Hành Sơn theo nghi lễ tôn giáo Phật giáo. Từ năm 1991, Lễ hội Quán Thế Âm Ngũ Hành Sơn được tổ chức quy mô, diễn ra trong ba ngày 17, 18 và 19 tháng Hai, trong đó ngày 19 là ngày lễ chính thức.

Lễ hội gồm các nghi lễ: Lễ khai kinh, thượng phan - thượng kỳ; Lễ rước ánh sáng; Lễ pháp đàn Quán Thế Âm, thuyết giảng Đạo pháp và tổ chức các khóa tu tập; Chính lễ (Lễ vía Đức Phật Quán Thế Âm Bồ Tát; Lễ rước tôn tượng Quán Thế Âm Bồ Tát; Lễ hóa trang Quán Thế Âm Bồ Tát và cuối cùng Lễ tạ pháp đàn hoa đăng). Đan xen với các nghi lễ Phật giáo còn có nghi lễ truyền thống của nhân dân địa phương như: Lễ tế Xuân; Lễ dâng hương tưởng niệm Huyền Trân công chúa và Lễ tế Thạch nghệ Tổ Sư nghề điêu khắc đá Non Nước Ngũ Hành Sơn.

- Lễ khai kinh, thượng phan - thượng kỳ tổ chức ngày 17 để dâng lên mười phương chư Phật, chư Bồ Tát, chư Thiện Thần đồng thùy từ chứng minh gia hộ, nguyện cầu mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an. Nghi lễ do vị chủ Sám (chủ lễ - một vị hòa thượng) thực hiện.

- Lễ rước ánh sáng (Lễ rước đuốc) tổ chức tối 18. Tùy theo quy mô mà nghi thức lễ rước có thể lồng vào trong lễ rước kiệu hóa trang Quan Âm và đi qua các cung đường dẫn đến bờ sông Cổ Cò để thả hoa đăng. Đoàn rước lên đến hàng trăm người (là Chư Tăng, Phật tử, Đạo tràng và Thập phương thiện tín), đi thành hàng đôi, ở giữa là kiệu, dàn rước hoa, dàn nhạc, đội lân - sư tử - rồng và các hóa trang khác. Lễ rước ánh sáng để cầu mong ánh sáng soi đường cho chúng sinh, trí tuệ sáng thì tấm lòng, đạo đức trong sáng, sẽ làm nhiều việc thiện.

- Lễ thuyết giảng đạo pháp Quán Thế Âm và dân tộc tổ chức xuyên suốt trong thời gian 3 ngày của lễ hội, nhưng quy mô nhất là vào tối ngày 18 và chiều ngày 19. Đối tượng tham dự pháp đàn, ngoại trừ các đạo tràng tại lễ hội, còn có sự tham dự của Phật tử và Thập phương thiện tín, từ già đến trẻ và không phân biệt giới tính, con số lên đến hàng chục nghìn người, tất cả đều có thể tham dự, lắng nghe. Nội dung bài thuyết giảng: về giáo lý Phật giáo; hoặc ngợi ca lòng từ bi bác ái, hạnh nguyện, sự linh ứng của Đức Phật Bồ Tát Quán Thế Âm; hay cách chắp tay, lễ lạy, phương pháp niệm Phật cho những Phật tử lần đầu tham dự khóa tu; hoặc là chia sẻ những lời Phật dạy, về những tổn thất tinh thần và vật chất mà chúng ta thường gặp trong đời sống hằng ngày... Sau buổi thuyết giảng là chương trình Pháp đàn trì niệm kinh chú cho những người hiện diện trong đêm lễ hội. 

- Chính lễ - Lễ Vía Đức Phật Quán Thế Âm tổ chức vào ngày 19, nhằm ngày khánh đản (ngày sinh) của Đức Phật Quán Thế Âm. Nghi lễ này được xem là linh hồn của Lễ hội Quán Thế Âm. Chính lễ tổ chức long trọng, thu hút hàng chục vạn đồng bào các giới, Vị Hòa thượng có chức danh lớn nhất trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam được mời về để chủ trì nghi lễ. Chủ lễ niệm hương và dâng hương, cầu kinh tưởng niệm ân đức của Đức Phật Quán Thế Âm, nhằm nguyện cầu quốc thái dân an, chúng sanh an lạc.

- Lễ rước tôn tượng Đức Phật Quán Thế Âm thực hiện sau Lễ vía, thể hiện lòng tôn kính của các Phật tử hướng về Đức Phật Quán Thế Âm trong ngày khánh đản của Ngài. Tôn tượng của Ngài được rước từ trong động Quan Âm ở núi Kim Sơn đi ra đường Sư Vạn Hạnh, rước lên chùa Quán Thế Âm để làm lễ theo nghi lễ Phật giáo. Sau khi thực hiện xong các nghi lễ ở chùa, kiệu được khiêng từ chùa xuống chiếc thuyền đậu trên sông Cầu Biện và chạy vòng quanh sông Cổ Cò, nhằm cầu nguyện cho đồng bào, chúng sinh đi biển, làm ăn trên sông nước được thuận lợi, bình an.

- Lễ hóa trang Bồ Tát Quán Thế Âm thực hiện song hành với nghi lễ rước tôn tượng Đức Phật Quán Thế Âm. Để hóa trang tái hiện hình tượng Bồ Tát Quán Thế Âm, mỗi năm nhà chùa sẽ chọn một trong 32 ứng hóa của Bồ Tát Quán Thế Âm để hóa thân. Chẳng hạn, hóa trang tái hiện thành Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn, Thập nhất diện Quan Âm, Quán Âm Thiện Tài Đồng Tử, Bạch Y Quan Âm, Quán Âm Tống Tử, Quán Âm Nam Hải… Phật tử được chọn để hóa trang và hóa thân thành Bồ Tát Quán Thế Âm là một nữ phật tử với gương mặt đoan trang, phúc hậu, có học vấn, văn hóa, phẩm chất đạo đức tốt, là con của gia đình Phật tử thuần thành và nữ Phật tử đó phải thường xuyên đến chùa. Trước khi lễ hội diễn ra, khoảng 6 đến 8 tháng nữ Phật tử này được vị trụ trì chùa Quán Thế Âm giảng dạy về hạnh nguyện của Quán Thế Âm Bồ Tát, tập ngồi thiền, tập từng bước đi, cử chỉ, tính trang nghiêm của hình tướng Quán Thế Âm và thực hiện ăn chay 3 tháng trước khi nhập vai. Đồng thời, chọn may trang phục phù hợp theo ý nghĩa hóa trang. Sự hóa trang mong muốn tái hiện lại hình tượng Bồ Tát Quán Thế Âm tại lễ hội, để cho chúng sinh có dịp được chiêm ngưỡng sự đức độ, từ bi của Ngài, và ngụ ý rằng Ngài là vị Bồ Tát luôn đồng hành với chúng sanh mọi lúc mọi nơi, đặc biệt luôn đem hạnh nguyện từ bi, ban vui cứu khổ của mình tỏa khắp nhân loại. Ngoài việc hóa trang Quán Thế Âm Bồ Tát, tại lễ hội còn có những hóa trang thành các Tiểu đồng, các vị Bồ Tát khác và các Tiên nữ cùng Tứ Thiên Vương theo hầu, đều do gia đình Phật tử chùa Quán Thế Âm thực hiện.

- Lễ tạ pháp đàn hoa đăng thực hiện vào tối 19, là nghi lễ Phật giáo cuối cùng tại Lễ hội Quán Thế Âm, để cúng tạ sơn thủy, thổ thần và các thần linh đã phù hộ cho lễ hội thành công. Sau khi cúng tạ xong, những ngọn nến lồng vào hoa sen được thả xuống dòng sông, gửi lời cầu nguyện cho ánh sáng trí tuệ được trường tồn như dòng nước.

Đan xen với các nghi lễ Phật giáo, người dân địa phương tổ chức các nghi lễ dân gian như: Lễ dâng hương tưởng niệm tại miếu thờ Huyền Trân công chúa, Lễ tế Xuân (tại chùa Quán Thế Âm) và Lễ tế Thạch Nghệ Tổ Sư nghề đá Non Nước (tại Nhà thờ tổ nghề đá nằm dưới chân núi Mộc Sơn). Bên cạnh đó là các hoạt động giải trí cũng được tổ chức như: hô hát Bài chòi, hò khoan đối đáp, hát dân ca, hát Tuồng; các hội thi, trình diễn thư pháp và triển lãm tranh, ảnh thủy mạc; đến các hoạt động văn hóa văn nghệ; các trò chơi dân gian như múa lân, sư tử, rồng, đẩy gậy, kéo co, đua thuyền, cờ tướng…

Lễ hội Quán Thế Âm Ngũ Hành Sơn mang đậm tín ngưỡng tôn giáo Phật giáo, gắn liền với di tích quốc gia đặc biệt - Di tích Danh thắng Ngũ Hành Sơn, là sự kết tinh những giá trị văn hóa Phật giáo với văn hóa truyền thống của dân tộc dân tộc Việt Nam. Lễ hội đáp ứng nhu cầu tâm linh của cộng đồng, hướng con người đến điều thiện, đoàn kết cùng nhau xây dựng cuộc sống an lành, hạnh phúc. Các nghi lễ dân gian thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, tưởng nhớ, tri ân người có công với nước, với cộng đồng. Lễ hội Quán Thế Âm Ngũ Hành Sơn tuy mang màu sắc Phật giáo nhưng lại tôn vinh những giá trị văn hóa truyền thống, góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Lễ hội Quán Thế Âm Ngũ Hành Sơn biểu dương, tôn vinh các giá trị văn hóa và sức mạnh cộng đồng của môi trường xã hội mà nó đang tồn tại, là chất keo kết dính tạo nên sự gắn kết cộng đồng, nuôi dưỡng ý thức gắn kết với quê hương, giáo dục và nâng cao nhận thức của người dân đối với các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Lễ hội là sự kết hợp hài hòa giữa thế giới tâm linh và cuộc sống thực tại của con người, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa tâm linh của đồng bào, góp phần bảo tồn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, là kênh thông tin quan trọng, tạo cầu nối để quảng bá hình ảnh thành phố Đà Nẵng trong nước và quốc tế.

Với giá trị tiêu biểu trên, Lễ hội Quán Thế Âm Ngũ Hành Sơn được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 601/QĐ-BVHTTDL ngày 03/02/2021./.


http://dsvh.gov.vn/le-hoi-quan-the-am-ngu-hanh-son-3377















 

LỄ HỘI NGHINH ÔNG SÔNG ĐỐC

Lễ hội Nghinh Ông (thị trấn Sông Đốc, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau) là lễ cầu ngư, cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa của ngư dân miền biển, diễn ra vào ngày 15 và 16 tháng Hai (Âm lịch).

C:\Users\SPRING\Desktop\ảnh vhtt\lehoinghinhongsongdoc.jpg

Theo các ngư dân ở Sông Đốc, ngày 15/7/1925, sau đêm bão tố, một xác cá Ông (cá Voi) trôi dạt vào Vàm Xoáy, Rạch Gốc (thuộc huyện Ngọc Hiển ngày nay). Các ngư dân đã thỉnh xác cá Ông về Vàm Rạch Ruộng xây lăng thờ cúng. Năm 1943, tàu Pháp tuần tiễu bắn đạn pháo vào làm cháy Lăng Ông, ngư dân Sông Đốc đã liều mình để cứu hài cốt của cá Ông. Hài cốt đó do bị cháy mất nhiều nên ngư dân đã quấn vải đỏ và lập Lăng mới tại Vàm sông Ông Đốc để tiếp tục thờ cúng Ông. Năm 1960, vì lý do an ninh, vạn dân phải di dời Lăng Ông từ Vàm Sông Đốc về khóm 2, thị trấn Sông Đốc như hiện nay.

Hiện nay, người dân Sông Đốc vẫn truyền miệng về huyền thoại “cá Ông cứu độ người”, mang màu sắc Phật giáo. Huyền thoại kể về việc Phật Tổ sai Quan Âm Bồ Tát (Phật Bà Quan Âm) lấy chiếc áo cà sa của mình xé ra thành trăm mảnh vải, thả xuống biển thành một đàn cá Ông, sau đó Quan Âm Bồ Tát lấy xương voi hóa phép thành xương cá Ông to lớn. Với bộ xương đặc biệt của mình, cá Ông có phép thâu đường (rút ngắn khoảng cách) để kịp thời cứu người, cứu thuyền mắc nạn trên biển khơi.

Hàng năm, lễ hội Nghinh Ông ở Sông Đốc quy tụ hàng nghìn chiếc ghe, tàu đánh bắt trên biển. Các vị chức sắc trong “Vạn Ban” chọn từ 01 đến 03 chiếc tàu để làm phương tiện thực hành nghi lễ Nghinh Ông, số tàu, thuyền còn lại nối đuôi nhau cùng tiến ra biển, tạo nên một khung cảnh vô cùng náo nhiệt. Lễ hội gồm các nghi thức chính như: Nghinh Ông, Tế Tiền Hiền, Chánh Tế và sau cùng là Tống Ôn.

Trưa ngày 15 là nghi thức Nghinh Ông. Các thành viên trong Ban Trị sự tề tựu trong Chánh điện Lăng Ông, học trò lễ, đội lân cùng tham gia làm lễ. Mọi người tập trung phía trước sân của Lăng để chuẩn bị đi Nghinh Ông. Đoàn đi nghinh có trống đi trước, lân theo sau và nhiều lính lệ tay cầm cờ đủ màu sắc (cờ nước, cờ ngũ sắc…), các học trò lễ, đào thài đi hầu cận long đình, cuối cùng là các thành viên trong Ban Trị sự và đông đảo người dân. Trên đường đoàn nghinh Ông đi qua, nhà dân 2 bên đường đều ra trước nhà lập hương án chờ đoàn nghinh Ông đi qua để thắp hương bái vọng Ông Nam Hải.

Đến cảng cá Sông Đốc, các thành viên trong Ban Trị sự, lính lệ, đào thài, học trò lễ, đội trống, lân lên một chiếc tàu khá lớn đã được trang trí màn che và bàn hương án, gọi là Nhà thủy lục. Tàu được lựa chọn từ gia đình làm ăn phát đạt, có uy tín. Những người khác thì lên những chiếc tàu xung quanh để bắt đầu ra khơi Nghinh Ông. Khi đã ổn định, chiếc tàu lễ xuất hành ra khơi Nghinh Ông trước, hai bên có hai tàu hộ vệ cũng trang hoàng đẹp tương tự như Nhà thủy lục nhưng nhỏ hơn. Toàn bộ các tàu khác nối đuôi nhau, tất cả cùng đi ra ngoài vàm sông Ông Đốc. Nhiều tàu đang đánh bắt ở vùng biển Tây thuộc các tỉnh như Bạc Liêu, Bến Tre, Kiên Giang, Sóc Trăng,… cũng cùng ra khơi nghinh Ông.

Lễ hội Nghinh Ông những năm gần đây có khoảng 250 đến 300 chiếc tàu tham gia. Chiếc tàu lễ ra đến biển Tây vào khu vực nước trong của biển, các thành viên trong Ban Trị sự trang nghiêm thắp hương bái lạy long đình. Tiếp đó, Chánh bái tiến hành nghi thức xin keo. Xin keo nếu thuận hoặc thấy “Ông dọi” tức là cá Ông phun nước từ dưới biển lên, nhân dân cho rằng cá Ông đã đồng ý thỉnh (đón) về Lăng. Nếu chưa xin keo được hoặc chưa thấy Ông dọi thì phải đi tiếp về hướng Tây một tuần hương lại làm lễ tế để thỉnh Ông, cứ như thế cho đến chừng nào “Ông thuận” (Ông đồng ý) thì mới diễu hành quay về lăng. Khi Ông thuận, thành viên trong Ban Trị sự sẽ múc nước trong dưới biển lên cho vào các bình đã chuẩn bị trước để mang về thờ cúng trên bàn thờ Ông. Theo các vị cao niên, năm nào xin keo một lần mà được thì năm đó công việc đánh bắt của ngư dân được thuận lợi, trúng mùa, còn xin nhiều lần không được thì đoàn nghinh phải đi ra khơi xa hơn nữa và đó cũng là điềm dự báo một năm nghề đánh bắt thủy hải sản gặp nhiều khó khăn. Lấy nước xong, tàu lễ và toàn bộ tàu ra khơi trở về bờ. Đến bờ, đoàn xếp theo thứ tự như lúc đi nghinh và quay trở về lăng. Về đến lăng, mọi người làm lễ thỉnh Ông vào Chánh điện. Nghi thức Nghinh Ông kết thúc.

Tối ngày 15, Ban Trị sự tổ chức nghi thức tế Tiền hiền tại bàn thờ thần Nam Hải giữa chánh điện.

Đêm ngày 15, Ban Trị sự tiếp tục tổ chức nghi lễ Chánh tế. Nghi lễ diễn ra tương tự như tế Tiền hiền. Các thành viên trong Ban Trị sự quì trước bàn thờ Nam Hải, một vị đại diện sẽ đọc bài văn Chánh tế, đặc biệt là trong văn tế có nhắc đến tên của nhiều vị thần linh ở vùng sông biển.

Kết thúc nghi Chánh tế là nghi thức Tống Ôn, tức tiễn đưa chư Thần và các vị âm linh về lại biển khơi, sau khi đã dự lễ với người dân. Ngư dân chuẩn bị một chiếc tàu dài khoảng 1m và có kiểu dáng như tàu đánh bắt ngoài khơi, bên trong tàu bày lễ vật cúng: gà luộc, vịt luộc, gạo, muối, vàng mã,… Đến khuya, đoàn tham gia nghi thức gồm năm người đưa chiếc tàu ra bến sông và có thêm một người đánh trống đi trước. Một chiếc xuồng đã chuẩn bị sẵn để đưa tàu tống ôn ra ngoài cửa sông Ông Đốc tại bến tàu gần đó. Chiếc xuồng chạy đến cửa sông Ông Đốc, mọi người cùng thắp hương khấn nguyện và thả tàu xuống nước. Ông Chánh chủ Lăng Ông Sông Đốc và các vị đi cùng giơ tay chào và mong mỏi tàu sẽ đưa chư vị thần linh và âm hồn đi ra với biển.

Sáng ngày 16, đông đảo người dân địa phương, nhất là các chủ vựa thu mua thủy hải sản, chủ tàu, tài công và ngư phủ ở địa bàn thị trấn Sông Đốc đến thắp hương và khấn vái thần Nam Hải phù hộ cho họ một năm đánh bắt trúng mùa, an toàn và thuận lợi. Sau đó, mọi người cùng dự bữa tiệc mặn, tâm tình và trao đổi nghề nghiệp. Ngoài ra, nhiều chủ ghe từ các tỉnh khác đang đánh bắt ở vùng Biển Tây, Vịnh Thái Lan hay neo đậu tại cửa Sông Đốc nghe tin cũng đến dâng hương cầu nguyện tại Lăng Ông. Buổi trưa, lễ hội kết thúc.

Trong thời gian lễ hội, Ban Trị sự và cộng đồng mời đoàn hát bội về biểu diễn các tuồng tích cổ và tổ chức các trò chơi dân gian phục vụ người dân và du khách.

Lễ hội Nghinh Ông Sông Đốc phản ánh lịch sử hình thành, tồn tại và phát triển của cộng đồng cư dân miền biển tại địa phương; là tấm gương phản chiếu bản sắc văn hóa dân gian đặc sắc của ngư dân nơi đây, là môi trường bảo tồn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, là cơ hội phát huy giá trị văn hóa biển Cà Mau. Lễ hội là nguồn sử liệu phong phú và xác thực về những bằng chứng liên quan đến chủ quyền biển đảo, về kinh nghiệm ứng xử với biển của các thế hệ người Cà Mau nói riêng và người Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai. Tín ngưỡng thờ cúng Cá Ông nói chung và Lễ hội Nghinh Ông Sông Đốc nói riêng là môi trường giáo dục đạo lý "Uống nước nhớ nguồn", tôn vinh công đức của Cá Ông như một vị thần biển, cứu giúp ngư dân khi gặp hoạn nạn, cũng như mang đến những vụ mùa biển bội thu, cuộc sống được an bình và no đủ. Thực hành Lễ hội Nghinh Ông Sông Đốc cũng là cơ hội ôn lại lịch sử cộng đồng, tưởng nhớ các vị Thành hoàng, tiền hiền có công lập làng, tạo nghề và dạy nghề cho cư dân. Tham gia tổ chức, thực hành Lễ hội Nghinh Ông Sông Đốc giúp gắn kết cộng đồng, thắt chặt tình đoàn kết, tương thân tương ái giữa ngư dân các làng chài trải dọc khắp tỉnh sau những đợt lao động mưu sinh vất vả, hiểm nguy trên biển. Lễ hội cũng thể hiện thái độ ứng xử hài hoà, thân thiện với môi trường biển, sự trân trọng đối với thế giới tự nhiên của ngư dân. Tín ngưỡng thờ cúng Cá Ông trở thành ý thức bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ môi trường biển một cách tự nhiên, tự nguyện, thể hiện thái độ nhân văn của ngư dân biển Việt Nam.

Với giá trị tiêu biểu, Lễ hội Nghinh Ông Sông Đốc được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 600/QĐ-BVHTTDL ngày 03 tháng 02 năm 2021./.

http://dsvh.gov.vn/le-hoi-nghinh-ong-song-doc-3369





































 

LỄ HỘI CẦU BÔNG CỦA NGƯỜI KINH Ở BÌNH PHƯỚC

 Lễ hội Cầu bông của người Kinh ở Bình Phước được hình thành cùng với quá trình di dân và định cư của người Kinh tại vùng đất này. Cùng quá trình khai phá và định cư, người Kinh đã mang theo truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng làng xã đến với vùng đất mới, trong đó có tục thờ cúng Thành Hoàng, những bậc tiền hiền khai khẩn, hậu hiền khai cơ. Hiện nay, Lễ hội Cầu bông ở tỉnh Bình Phước được cộng đồng thực hành tại 5 ngôi đình và một miếu thờ Thành hoàng, cụ thể: đình Hưng Long (thị trấn Chơn Thành, huyện Chơn Thành), đình Tân Khai (xã Tân Khai), đình Thanh An (xã Thanh An), đình Suối Cạn (xã Minh Hưng, huyện Hớn Quản), đình Tân Lập Phú (phường Phú Thịnh, thị xã Bình Long), miếu Đức Hòa (thị trấn Đức Phong, huyện Bù Đăng).

 

C:\Users\SPRING\Desktop\ảnh vhtt\kham-pha-le-hoi-cau-bong-binh-phuoc-voi-khong-khi-tung-bung-nao-nhiet-1657013677.jpg

Lễ hội Cầu bông ra đời vào khoảng nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, gắn với quá trình hình thành các ngôi đình thần và hoạt động sản xuất nông nghiệp của những cư dân người Kinh sinh sống trên địa bàn tỉnh Bình Phước. Mục đích chính của lễ hội là cầu mong các vị nhiên thần, nhân thần và những bậc tiền hiền, hậu hiền phù trợ cho nhân dân trong xóm làng tiến hành một vụ mùa bội thu, mưa thuận, gió hòa cho cây trái xanh tốt.

Hàng năm, tại các đình thần thường diễn ra các nghi thức, nghi lễ cúng tế các vị Thần Thành Hoàng Bổn cảnh, trong đó, có hai nghi lễ chính đó là Lễ Kỳ yên và Lễ Cầu bông. Lễ hội Cầu bông ở mỗi địa phương tổ chức vào những ngày khác nhau, nhưng thường tổ chức trong tháng Tám, Chín và tháng Mười (Âm lịch). Đình thần Hưng Long tổ chức Lễ hội Cầu bông vào ngày 15 và 16 tháng Bẩy, đình thần Tân Khai vào ngày 17 và 18 tháng Tám, đình thần Thanh An vào ngày 15 và 16 tháng Mười, đình thần Tân Lập Phú vào ngày 8 và 9 tháng Chín, miếu thần hoàng Đức Hòa từ ngày 13 đến 14 tháng Mười, đình thần Suối Cạn vào ngày 18 tháng Sáu. Theo phong tục, cứ 3 năm sẽ tổ chức đại lễ một lần (gọi là tục tam niên đáo lệ), trong đại lễ thường có hát bội.

Lễ hội Cầu bông ở Bình Phước thường được tổ chức trong hai ngày: Ngày thứ nhất có lễ trình thần, lễ rước bội, lễ thỉnh sanh, lễ tiên thường; Ngày thứ hai là lễ chính tế với các nghi thức khai lễ, lễ cúng tiền hiền, hậu hiền, các trò diễn.

Lễ trình thần

Chiều ngày thứ nhất, Ban Quý tế dâng lễ trình báo với Thành hoàng về những người sẽ thực hành các nghi lễ của Lễ hội Cầu bông. Nghi thức cúng Thành Hoàng, các thành viên trong Ban Quý tế trang phục gọn gàng, khấn cúng niệm hương, không có văn tế. Sau khi Chánh tế thực hiện nghi thức cúng Thành Hoàng, các thành viên tiến hành thắp hương lên bàn thờ Thành Hoàng, Tiền hiền, Hậu hiền để trình Thần các thành viên Ban Quý tế sẽ thực hiện các nghi lễ sắp được diễn ra tại đình thần.

Lễ rước bội

Hát bội chỉ được tổ chức vào những năm tiến hành đại lễ. Để tổ chức việc này, Ban Quý tế sẽ liên hệ với đoàn hát và chuẩn bị võ ca để tổ chức hát bội tại đình thần, võ ca thường được bố trí trước cửa đình và quay vào chính diện của đình.

Đến lễ chính, khi đoàn hát bội đến cửa đình, đại diện đoàn hát bội sẽ thắp nhang lên trên ngai thờ Tổ hát bội, lúc này Chánh tế sẽ bưng một khay trầu, rượu, nhang đèn, cùng các thành viên trong Ban Quý tế đem theo dàn lễ bộ ra cổng đình trao cho đại diện đoàn, để nghênh đón rước Tổ hát bội và đoàn hát bội vào đình.

Sau đó, đoàn hát bội sẽ đưa Ngai thờ Tổ vào đình để xin phép Thành hoàng được đặt Ngai thờ Tổ sau sân khấu của võ ca. Lúc này đoàn hát bội mới tiến hành đưa các dụng cụ, đồ dùng của đoàn hát bội vào đình và tiến hành những công tác chuẩn bị cho hoạt động biểu diễn của đoàn hát.

Lễ thỉnh sanh

Thực hiện vào khoảng 15 giờ, dâng trình lễ vật và xin phép Thành Hoàng cho được mổ heo để dùng cho lễ hội. Heo được chuẩn bị cho nghi lễ cúng là một con heo sống tuyền sắc (một màu - con vật thuộc loại nguyên sinh, thuần chủng không phải là giống lai tạp) thể hiện cho sự nguyên vẹn của lễ vật dâng cúng lên Thành hoàng. Heo dâng cúng được tắm rửa sạch và cột bốn chân chắc chắn để đưa lên đặt trước bàn thờ Thành Hoàng, ngoài ra còn các lễ vật là hoa quả, nhang, đèn, trầu, rượu… được sắp đặt tại bàn thờ Thành Hoàng và các bàn thờ Tiền hiền, Hậu hiền, bàn thờ Thần nông của đình thần. Sau khi đã chuẩn bị xong lễ vật, Ban Quý tế sẽ thực hiện nghi thức cúng, báo cáo heo tuyền sắc đang còn sống và xin Thần Thành Hoàng được phép làm thịt heo để dùng cho lễ hội.

Sau khi kết thúc Lễ thỉnh sanh, con heo sống được mổ thịt. Người mổ heo dùng một cái chung nhỏ để lấy một ít huyết heo và một nhúm lông gáy, lông đuôi của con heo (gọi là huyết mao) để dâng cúng Thành Hoàng ở nghi thức tiếp theo, chung đựng huyết mao sẽ được bọc giấy tiền vàng mã. Thịt heo sau khi được làm sạch sẽ, vẫn để nguyên con tiếp tục được đưa lên chính điện cùng với phần huyết mao để dâng cúng Thành Hoàng. Riêng phần lòng heo và huyết heo sẽ được dùng để nấu cháo dâng cúng trên đình thần.

Lễ tiên thường

Thực hiện vào 18 giờ, là nghi lễ dâng cúng lễ vật báo cáo với Thành Hoàng sau khi đã mổ thịt heo chuẩn bị cho chính lễ ngày hôm sau.

Lễ vật dâng cúng trong lễ tiên thường là thịt heo sống nguyên con cùng với cháo được nấu với lòng và huyết heo được đặt lên bàn thờ Thành Hoàng và các ban thờ khác tại đình thần. Sau khi các lễ vật được chuẩn bị xong, Chánh tế và các thành viên trong Ban Quý tế sẽ tiến hành bái ba bái trước bàn thờ và sau đó dâng hương lên trên bàn thờ Thành Hoàng, Tiền hiền, Hậu hiền trong đình.

Lễ chính tế

Sang ngày thứ hai, Ban Quý tế thực hiện nghi thức chính lễ. Lễ vật dâng cúng tại bàn thờ Thành hoàng (một phần thịt sườn heo sống, 7 thanh sườn heo); tại ban thờ Tiền hiền, Hậu hiền (phần thịt heo sống với 5 thanh sườn heo); tại ban thờ Chúa tể sơn lâm (một phần thịt heo sống, ngoài ra còn có các lễ vật khác gồm hoa quả, nhang đèn, hương đăng, rượu, trà, cau trầu...). Cùng với các lễ vật do Ban Quý tế chuẩn bị, nhân dân và du khách thập phương đến tham dự lễ hội sẽ đặt các lễ vật dâng cúng tại bàn hội đồng trước bàn thờ Thành Hoàng.

Nghi thức tiến hành lễ chính tế được tổ chức vào lúc 8 giờ sáng, bắt đầu là nghi thức khai lễ, cúng tế và hóa văn, sau đó là lễ cúng Tiền hiền, Hậu hiền. Sau khi cúng đình hoàn thành, cộng đồng sẽ vào đình dâng hương và cầu xin sức khỏe, bình an, thịnh vượng, mùa vụ bội thu…

Vào dịp đại lễ, đình thần thường mời các đoàn hát bội về biểu diễn các tuồng, tích về lịch sử, văn hóa, sử thi thần thoại hoặc những câu chuyện dân gian về các tích sử mang tính răn đe giáo dục thể hiện cho tính nhân văn sâu sắc. Đình thần còn tổ chức các trò chơi dân gian nhằm tạo ra không gian văn hóa sinh hoạt cộng đồng náo nhiệt, như: chọi gà, đụng trâu, đi cà kheo, đánh cờ…

Lễ hội Cầu Bông phản ánh quá trình khai hoang lập làng của người Kinh trên vùng đất Bình Phước vào khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Thông qua hoạt động lễ hội tại đình thần đã phản ánh những ước mơ, khát vọng của cư dân người Kinh đến Bình Phước từ thủa khai sơn mở cõi. Cùng với hoạt động lễ hội, đình thần còn được xem như là một dấu ấn lịch sử về quá trình “Nam tiến” của những cư dân người Kinh trên vùng đất Bình Phước nói riêng và Nam Bộ nói chung. Thực hành lễ hội là dịp gắn kết cộng đồng, làng xã để vượt qua những lúc khó khăn, vất vả của buổi đầu khai sơn phá thạch cũng như trong quá trình xây dựng và phát triển lập nên các xóm làng người Việt trên vùng đất mới. Lễ hội Cầu Bông thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”, ghi nhớ công ơn những người đi trước đã có công khai phá, tạo dựng nên những xóm làng mới để các thế hệ sau tiếp bước xây dựng. Có thể thấy, lễ hội Cầu Bông là kết quả của sự giao thoa văn hóa của cư dân các vùng miền của các dân tộc làm nên sự đa sắc màu trong bức tranh văn hóa của Bình Phước nói riêng và cả nước nói chung.

Với giá trị tiêu biểu, Lễ hội cầu Bông của người Kinh ở Bình Phước được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 823/QĐ-BVHTTDL ngày 09 tháng 3 năm 2021.

http://dsvh.gov.vn/le-hoi-cau-bong-cua-nguoi-kinh-o-binh-phuoc-3366


































 

NAU M’PRING CỦA NGƯỜI M'NÔNG

Dân ca của người M’nông ở Đắk Nông (còn gọi là Nau M’pring), là hình thức diễn xướng dân gian (không có nhạc đệm) được người M’nông sáng tác, sản sinh từ lao động sản xuất, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và được cộng đồng coi là tài sản chung của tộc người


C:\Users\SPRING\Desktop\ảnh vhtt\baoanh422-23.jpg

C:\Users\SPRING\Desktop\ảnh vhtt\cong-chieng .jpg



 

Dân ca M’nông gồm hai thành phần cơ bản là âm nhạc giữ chức năng nhịp điệu, tiết tấu; lời ca thể hiện nội dung, gắn bó với nhau và hỗ trợ cho nhau. Những bài hát dân ca là lời ăn tiếng nói thường ngày được nghệ thuật hóa, khái quát hóa mang sắc thái dân tộc, địa phương tạo sự phong phú về giai điệu, tiết tấu và tô đậm bản sắc dân tộc trong dân ca của người M’nông. Xét về thang âm, dân ca M’nông có đủ các thể từ thang 3 bậc âm, 5 bậc âm, 6 bậc âm và 7 bậc âm. Tuy nhiên, người M’nông dùng chủ yếu là thang 5 âm (có hoặc không có bán âm).

Nội dung cơ bản của dân ca M’nông thường đề cập đến sự hình thành của vũ trụ, con người và xã hội; ngôn ngữ rất gần với lời nói hàng ngày và mang đậm tính thơ ca; phương pháp sử dụng tục ngữ và thành ngữ được vận dụng một cách sáng tạo; các thủ pháp nghệ thuật được sử dụng rất tài tình, như so sánh, tương phản, mô phỏng, ngoa dụ… thường được kết hợp với nhau trong quá trình khắc họa tính cách của nhân vật và sự việc. Ngoài ra, Dân ca M’nông là thể loại giàu chất trữ tình, những câu hát có hình ảnh, nhịp điệu, có vần điệu… thường dẫn ra trong cuộc sống hàng ngày. Chủ đề của lời hát còn được dùng trong các nghi lễ và những điệu hát khấn thần. Chính nhờ hình thức này mà dân tộc M’nông đã dựng nên những pho sử thi rất hoành tráng, có dung lượng dài đến hàng ngàn câu.

Tất cả những đặc điểm nói trên của dân ca M’nông được bắt nguồn từ một nền nông nghiệp nương rẫy, một xã hội tiền giai cấp. Dân ca M’nông hình thành cơ bản trên cơ sở lời nói vần, một hình thức đặc biệt trong ngôn ngữ của tộc người M’nông. Mặc dù đã trải qua quá trình giao lưu văn hóa, đặc biệt là văn hóa ngoại lai của Pháp, Mỹ và văn hóa của người Kinh, song dân ca M’nông vẫn phát triển, phong phú về thể loại, đa dạng về thang âm và giữ được những nét đặc trưng. Hình thức truyền miệng dân ca vẫn là phương thức lưu truyền, phổ biến trong cộng đồng.

Trong những bài hát dân ca người ta phân thành nhiều thể loại như các bài hát ru con, các khúc hát ngắn tả các con vật khác, các khúc ca mà ta có thể đặt tên là khúc hát của các cô nàng thời xa xưa (Noo toong uur drôh), hay còn là khúc hát của các chúa tể thời xa xưa (Noo toong kuang), những bài hát minh họa một sự kiện nào đó thường rất gần… nhưng quan trọng nhất là các bài hát về tình yêu (Noo toong soh). Dựa vào nội dung của các bài hát dân ca M’nông, có thể phân loại theo hai nhóm sau: hình thức diễn xướng và hình thức nghi thức.

Nhóm dựa vào hình thức diễn xướng

- Hát đơn là hình thức hát phổ biến của người M’nông cho mọi tầng lớp, thường do một người hát như hát ru, hát trữ tình…thể hiện nội dung sâu lắng, mang tính tự sự, những ước mơ thầm kín, tình cảm riêng tư hoặc cả những nhu cầu tâm linh của con người.

- Hát đối đáp của người M’nông thường chia làm 2 nhóm để hát thi với nhau, phổ biến nhất là hát giao duyên. Hát đối đáp thường có sẵn bài để hát, đôi khi người hát ứng tác những lời ca mới; nội dung thường nói về cảnh quan thiên nhiên, tình yêu quê hương, tình yêu đôi lứa.

- Hát kể sử thi (Ot N’drông) diễn ra trong thời gian nông nhàn, những đêm giá lạnh quây quần bên bếp lửa hay trong lễ hội, do các già làng kể cho mọi người nghe. Hát kể là những huyền thoại liên quan đến các thần linh, biểu hiện ước mơ con người trước thiên nhiên và đất trời huyền bí, khắc nghiệt. Đây là những bản anh hùng ca có vần điệu, được kết hợp các hình thức kể giữa nói, ngâm vịnh, với các động tác múa có tính xúc cảm cao.

- Hát múa diễn ra trong các ngày lễ hội truyền thống và sinh hoạt chung của cộng đồng; là sự kết hợp của cả 3 yếu tố là hát, múa và nhạc đệm (bằng dàn chiêng hoặc một số nhạc khí bằng tre nứa).

- Hát khóc thể hiện sự thương tiếc về người mất trong đám tang (kể về số phận, những công trạng của họ đối với gia đình cũng như cầu mong cho người chết siêu thoát) hoặc con trâu sắp chết trong lễ hội.

Nhóm dựa vào hình thức nghi thức

- Dân ca tín ngưỡng (khấn thần Bưh Rrah): thường được hát trong các buổi lễ, hội của cộng đồng nhằm cầu xin các thần giúp con người vượt qua khó khăn, dịch bệnh; mùa màng được bội thu; cho con cháu vui chơi; trâu, bò, lợn, gà đầy chuồng; thóc đầy kho, đầy bồ.

- Dân ca đợi chờ (M’prơ) khá phổ biến trong thanh niên nam nữ. Khi vắng người yêu, chàng trai hay cô gái cất lên những lời ca có tiếng nhạc rừng phụ họa làm vơi nỗi nhớ thương, có khi ở chòi canh trên rẫy, hoặc trên nhà sàn sau giờ làm việc, trong một đêm trăng hay những lúc nghỉ ngơi.

- Dân ca giao duyên (Tăp tà Weu) hay còn gọi là hát tỏ tình, hát đối đáp… Trai gái làm quen, ưng ý nhau thì thông qua câu hát họ nói lời ước hẹn, thề thốt giữ trọn tình yêu, hẹn ngày chung hạnh phúc. Trước khi chia tay, họ hát những khúc ca tiễn biệt với tình yêu tha thiết và hẹn nhau những lần hát sau đó.

- Hát ru con (Mprơ n’him kon) hầu hết có nội dung về nhận thức, ước mơ, hoài bão của các bà, các mẹ, các chị đối với cháu, con, em mình; được thể hiện ở nhà, khi địu con đi nương, trong quá trình lao động sản xuất…

- Đồng dao (Nao mưi kon xe) được hát trong trò chơi dân gian của con trẻ người Mnông như đi cà kheo, kéo co, trốn tìm… các em vừa chơi vừa hát phụ họa, làm cho các trò chơi thêm phần sôi nổi, vui vẻ. Hình thức hát đồng giao có nội dung phong phú, đa đạng thích hợp với cách nghĩ cách làm của trẻ em; lời hát ngắn gọn, dễ hiểu, có ý nghĩa giáo dục.

Ngoài việc phân loại dân ca dựa vào nội dung bài hát, dân ca M’nông có thể chia thành các thể loại như: Dân ca gắn với lao động sản xuất, phong tục tập quán, sinh hoạt và nghi lễ tín ngưỡng.

- Dân ca gắn với lao động sản xuất: từ lao động sản xuất, đồng bào M’nông dùng lời ca, điệu nhạc phản ánh cuộc sống và động viên nhau với những bài dân ca miêu tả cuộc sống lao động sản xuất, gắn với nương rẫy, núi rừng, cỏ cây, làng bản…

- Dân ca gắn với phong tục tập quán và sinh hoạt: được thể hiện nhiều nhất trong thể loại kể trường ca, các điệu hát trong lễ đâm trâu hoặc người già khi uống rượu... Đây là loại dân ca phổ biến nhất và gắn bó thường ngày với đời sống nhân dân, như: Hát đợi chờ, hát giao duyên (hát đối đáp), hát ru, hát đồng giao (hát trò chơi con trẻ)… Đó là những điệu dân ca tình tứ, ví von, sôi nổi rộn ràng, biểu hiện tâm hồn, tư tưởng tình cảm của con người trong các lĩnh vực của cuộc sống xã hội.

- Dân ca gắn với nghi lễ tín ngưỡng: gồm nhiều bài hát ca ngợi oai linh của các vị thần, cầu xin những điều tốt đẹp cho con người.

Không gian diễn xướng của dân ca M’nông rất rộng, bao trùm toàn bộ môi trường sinh sống của người M’nông. Sau các nghi lễ trang trọng, người ta quây quần bên các ghè rượu thưởng thức những đồ ăn, thức uống mang linh khí của các thần bảo mệnh, rồi thả hồn vào những bài hát dân ca, ca ngợi quê hương, làng bản. Hình thức hát dân ca tương đối tự do thoải mái, không bị câu thức bởi lễ nghi, phép tắc diễn xướng. Người nghệ nhân bằng giọng hát của mình, đặt chỗ lấy hơi, chọn nơi thêm luyến láy, từ phụ, hư từ làm cho lời hát sinh động. Giọng, điệu, lời hát, cách sử dụng ngữ điệu, ngữ khí, sắc thái là những phương tiện cơ bản của diễn xướng mà nghệ nhân hát dân ca cần có để có thể diễn xướng được những bài dân ca M’nông.

Dân ca của dân tộc M’nông mang đậm giá trị lịch sử, văn hóa, gắn liền với sự hình thành và phát triển của cộng đồng người M’nông. Dân ca M’nông để giao tiếp giữa con người với thế giới siêu nhiên, hát về tình yêu đôi lứa, ca ngợi những chàng trai anh dũng chống lại cái ác để bảo vệ buôn làng, thiên nhiên tươi đẹp. Dân ca M’nông góp phần làm phong phú đời sống tinh thần, khích lệ quá trình lao động và sinh hoạt cộng đồng của cộng đồng. Dân ca M’nông bảo vệ và trao truyền các tri thức về tự nhiên, xã hội và con người như: các hiện tượng nắng, mưa, gió, bão, sấm sét, đêm ngày, núi rừng, sông suối, ao hồ, đầm lầy, trời đất...; ứng xử với tự nhiên trong lao động sản xuất, săn bắt, hái lượm...; ứng xử giữa con người với nhau; về văn hóa vật chất (ăn, mặc, ở…) và văn hóa tinh thần (nghi lễ, lễ hội, phong tục, tập quán...)… Dân ca M’nông góp phần cố kết cộng đồng, giáo dục các thế hệ về ý thức cội nguồn dân tộc, bản sắc tộc người, đạo đức trong gia đình và trong cộng đồng, tình yêu đôi lứa, trao truyền kinh nghiệm lao động sản xuất… để truyền dạy cho thế hệ sau. Dân ca của người M’nông góp phần nghiên cứu lịch sử, văn hóa, tri thức dân gian như phong tục, tập quán, lễ hội của dân tộc M’nông trên địa bàn tỉnh Đắk Nông; có giá trị khoa học trong nghiên cứu ngôn từ dân gian của dân tộc M’nông.

Với giá trị tiêu biểu trên, Nau M’Pring (Dân ca) của người M’nông được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 2743/QĐ-BVHTTDL ngày 30/9/2020.

http://dsvh.gov.vn/nau-m%E2%80%99pring-cua-nguoi-m-nong-3339











 

 





 

NGHI LỄ KIN PANG THEN CỦA NGƯỜI THÁI TRẮNG

Trong các bản của người Thái thường có một vài người làm thầy mo, thầy cúng, thầy bói (được gọi là Mo, Một, Then). Thầy mo, thầy cúng có thể là do học thuộc những bài cúng, cách cúng bái rồi sau đó hành nghề, nhưng đa số được đồng bào quan niệm là do được nhập hồn làm thầy mo, then. Họ là những nông dân bình thường, khi có người cần giúp họ sẽ đi thực hành nghi lễ; làm Một hay làm Then không phải muốn mà được, mà do được thần linh, tổ tiên, tổ nghề lựa chọn và những người này phải chấp nhận làm nghề, nếu không sẽ ốm đau dài ngày, không khỏi được.

 

C:\Users\SPRING\Desktop\ảnh vhtt\thai-trang-10042022.jpg

Người Thái trắng có 2 loại thầy mo: Một và Then (có thể là đàn ông hoặc phụ nữ). Khi thực hành nghi lễ, Một cần một người thổi sáo trợ giúp (pí Một) trong quá trình tiếp xúc với thần linh, đi tìm các linh hồn lạc, lời cúng được nói bình thường. Then khi thực hành nghi lễ cần có đàn tính (có thể tự gảy hoặc do một người đàn ông trợ giúp), một người phụ nữ lắc quả nhạc (mák hính) liên tục, lời cúng theo thể loại hát then.

Then của người Thái trắng thuộc tất cả bài cúng các loại ma, biết một số cây thuốc chữa bệnh, biết hát Then và đối đáp giỏi,… Họ được coi như người của trời (Then), được cử xuống trần gian để cứu người trần khỏi ốm đau, bệnh tật, được dân bản tín nhiệm, biết làm phép thuật, có khả năng giao tiếp với thần linh, với các lực lượng siêu nhiên.

Khi Then cúng khỏi ốm cho người bệnh, những người bệnh này xin được nhận làm con nuôi. Then chữa khỏi bệnh cho nhiều người, làm nghề lâu năm, có uy tín, càng có nhiều con nuôi. Định kỳ, hàng năm hoặc 2-3 năm/lần Then tổ chức lễ cúng và gặp mặt các con nuôi vào một ngày nhất định đầu năm mới (khoảng từ mùng 3 - 10 Tết), không tổ chức sau rằm tháng Giêng vì họ quan niệm sau Rằm trên mường trời mọi người cũng phải đi làm không xuống dự lễ được. Lễ cúng đó gọi là lễ Kin Pang Then (lễ cúng mừng con nuôi).

Để tổ chức nghi lễ tại nhà, Then lựa chọn và ấn định ngày, với sự tham gia của 2 người giúp việc: Báo Khỏa, Sao Chay; các con nuôi, họ hàng, con cháu trong gia đình, dòng họ và người dân trong bản.

Trong nhà Then, bên cạnh bàn thờ tổ tiên (Clọ hóng), Then còn lập bàn thờ Then (Hỉnh một) có 3 tầng: tầng trên cùng gác các đồ Then dùng trong quá trình đi tìm hồn và nhiều đồng bạc (ngân kăm) làm bằng các vòng tre; tầng giữa thể hiện tầng trần gian, có 2 bát hương, 2 nhà gỗ nhỏ của làng bản; tầng dưới cùng có 2 nhà gỗ nhỏ là nhà của Then và chuồng ngựa của Then, cũng là nơi để những chiếc áo của người đến xin cúng, khi nào khỏi bệnh, người nhà sẽ mang lễ vật đến tạ ơn và lấy áo về. Khi chuẩn bị làm lễ Kin Pang Then, Then sẽ trang trí lại bàn thờ. Khi làm lễ, Then mặc trang phục truyền thống của người Thái, quấn một chiếc thắt lưng, đội mũ vải thêu hoa văn rực rỡ; có túi đồ nghề gồm: răng nanh lợn rừng, hòn đá cuội đen, mẩu nam châm nhỏ, dao nhọn hoặc thanh kiếm, quạt giấy, quả nhạc, gương, khăn mặt…

Ngày tổ chức nghi lễ, người nhà Then chuẩn bị các mâm lễ để cúng như: mâm lễ cúng ở bàn thờ tổ tiên do chủ nhà tự sắp xếp và đưa vào gian thờ tổ tiên, với thịt lợn được làm chín, xếp thành hình con lợn đang nằm hoặc một đôi gà nếu bố mẹ Then còn sống và các lễ vật khác; mâm lễ cúng Then ở bàn thờ Then gồm: (1) mâm cúng do người nhà và Then sắp xếp, (2) mâm lễ cúng tổ nghề (Pan cai – các vị thần linh trên trời) để cúng cầu cho các con nuôi do Then và người giúp việc bày lễ, trong đó có gạo, vòng bạc, trứng gà, răng nanh lợn rừng, gương, chén đựng rượu và nước, bung thóc cho ngựa của Then ăn khi đi đường, nước cho ngựa uống, rượu, chén, nước, trầu cau, điếu và thuốc lào cho Then dùng trên đường đi, bộ đồ cúng của Then.

Chuẩn bị lễ vật và sắp xếp mâm lễ xong, Then bắt đầu làm lễ. Lúc này, các con nuôi cũng bắt đầu đến đặt lễ (người ở xa có thể đến từ đêm hôm trước).

Đầu tiên là lễ cúng tổ tiên. Nếu bố mẹ Then còn sống, Then không được phép cúng tổ tiên mà phải nhờ bố của Then đến cúng hộ. Nếu bố mẹ Then không còn, Then được tự mình cúng cho bố mẹ, tổ tiên. Lễ cúng để xin phép tổ tiên cho được tổ chức lễ Kin Pang Then, cho phép mời Then và các vị thần linh trên trời về vui chơi, hưởng lễ. Khi Then cúng, vợ (chồng) Then và các con ngồi quì sau lưng, cúng xong, con cháu cùng với Then cúi lạy tổ tiên, sau đó Then quay mặt lại để các con cháu tạ lễ Then.

Tiếp đến là lễ cúng mời Then về dự lễ. Thầy Then cùng Sao Chay, Báo Khỏa lên Mường Trời mời Then và các vị thần linh trên trời xuống vui chơi và hưởng lộc của các con nuôi. Lễ cúng này được thực hiện trước bàn thờ Then và mâm lễ Pan Cai. Đường đi lên trời rất vất vả, qua nhiều con đường, sông, suối… nên khi Then hát, Báo Khỏa (ngồi bên trái của Then) đánh đàn tính, Sao Chay (ngồi bên phải Then) lắc quả nhạc liên tục để trợ giúp cho Then trong quá trình lên Mường Trời. Bài hát cúng miêu tả quá trình lên mường trời của Then, mời Then và tất cả mọi người trên mường trời xuống dự lễ. Lời hát của Then lúc trầm, lúc bổng, có lúc rất mệt nhọc, có lúc rất vui vẻ…thể hiện các trạng thái cảm xúc của Then trong quá trình đi mời.

Sau khi cúng mời được Then và các vị thần linh trên trời về dự lễ, Then bắt đầu cúng cho các con nuôi. Các con nuôi đến, sắp lễ và dâng nơi bàn thờ Then, trên sàn nhà, theo thứ tự, Then lần lượt cúng cho từng người một. Lễ vật của con nuôi được chia làm hai loại:

- Con nuôi mới được 1 - 2 năm dâng lễ vật gồm 1 đôi gà hoặc 1 con gà và 1 miếng thịt lợn, 1 con cá nướng, 2 gói cơm (hoặc xôi), 2 chiếc bánh chưng, 1 chai rượu, 1 sải vải trắng hoặc đỏ có đính tua rua ở 2 đầu khăn để vừa tặng Then làm lễ vừa dùng làm đạo cụ khi múa.

- Con nuôi từ 3 năm trở lên dâng ít nhất là 1 con gà, 2 gói cơm (hoặc xôi), 2 chiếc bánh chưng, 1 chai rượu.

Trong mỗi mâm lễ không thể thiếu các sợi chỉ được se lại để Then làm phép cầu may cho các con nuôi. Nếu con nuôi khá giả có thể đặt thêm nhiều lễ.

Các mâm lễ này được đặt dưới sàn nhà, trước gian thờ Hỉnh một. Then cùng Báo Khỏa, Sao Chay ngồi quay lưng lại bàn thờ Then, quay mặt về phía các con nuôi để thực hiện nghi lễ.

Đầu tiên, Then cúng cho vợ (chồng), các con của Then (cũng đều là các con bệnh được Then chữa khỏi), sau đó lần lượt đến các con nuôi khác. Then hát cúng cầu cho vợ, các con khỏe mạnh, gặp nhiều may mắn, làm ăn phát đạt, nuôi được nhiều gia súc, gia cầm trong tiếng đàn tính của Báo Khỏa và lắc nhạc của Sao Chay. Buổi trưa, Then nghỉ cúng, sắp mâm mời các con nuôi và bà con dân bản ăn trưa, chuẩn bị cho các trò chơi cộng đồng. Ăn xong, mọi người tham gia các trò diễn miêu tả các hiện tượng tự nhiên, hoạt động lao động sản xuất để cầu mong mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt, đồng thời tạo không khí vui vẻ, phấn khởi cho những người tham gia nghi lễ như: trò mưa đá dùng hạt bông tung lên, trò ong đốt, trò cày ruộng, trò chặt cây hái nấm. Then là chủ trò, có sự trợ giúp của Báo Khỏa, Sao Chay và sự tham gia nhiệt tình của các con nuôi, dân bản.

Buổi chiều, Then tiếp tục cúng cho các con nuôi. Buổi tối, mọi người cùng ăn cơm, uống rượu cần và tham gia các điệu múa nghi lễ gọi là Xe then, như: múa khăn, múa quả nhạc (mák hính), múa chọi gà (tó cáy), múa tăng bu, xòe vòng.

Ngày tiếp theo, Then tiếp tục cúng cho các con nuôi, con nuôi nào đến lúc nào cúng lúc đó. Then nào nhiều con nuôi thì lễ cúng có thể kéo dài tới 3 - 4 ngày. Khi cúng hết cho các con nuôi, Then quay vào bàn thờ Then cúng tiễn Then và các vị các thần linh về trời, kết thúc nghi lễ Kin Pang Then.

Nghi lễ Kin Pang Then là một nghi lễ quan trọng trong đời sống tâm linh của người Thái trắng, cầu mong những điều tốt đẹp cho con người, làng bản; tái hiện cuộc sống hàng ngày, lao động sản xuất của con người qua các trò diễn để cầu mưa thuận gió hòa và làm Then và các vị thần linh được vui. Nghi lễ Kin Pang Then phản ánh đời sống tín ngưỡng phong phú, quan niệm về nhân sinh quan, thế giới quan, nguồn gốc tộc người của người Thái. Nghi lễ góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa tộc người, liên kết và bảo lưu các giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng như: nghệ thuật múa, nghệ thuật tạo hình thông qua việc chuẩn bị các đồ cúng tế, đạo cụ của nghi lễ, ẩm thực, trang phục…; là dịp con cháu trong gia đình, họ hàng nội ngoại, bà con dân bản được cùng nhau vui chơi, hòa vào nhịp trống chiêng, múa xòe, liên hoan đón một vụ mùa mới, góp phần cố kết cộng đồng.

Với giá trị tiêu biểu, Nghi lễ Kin Pang Then của người Thái Trắng được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 2726/QĐ-BVHTTDL ngày 30/9/2020.

         http://dsvh.gov.vn/nghi-le-kin-pang-then-cua-nguoi-thai-trang-3340
















 

NGHI LỄ MẠNG MA

Theo tín ngưỡng của người Xinh Mun Dạ, mỗi thầy mo thường có một thầy mo cao tay đỡ đầu, nên khi bắt đầu hành nghề đều phải có nghi lễ nhận thầy đỡ đầu cho mình gọi là Nghi lễ cầu sức khỏe (Mạng Ma). Sau đó, cứ khoảng từ 5 - 10 năm, thầy mo này phải tổ chức Nghi lễ Mạng Ma một lần để cầu sức khỏe, cầu bình an cho mình, ngoài ra, còn cầu cúng cho người dân trong bản khỏe mạnh, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, bội thu; súc vật không mắc bệnh dịch, sinh sôi nảy nở.

C:\Users\SPRING\Desktop\ảnh vhtt\a2ed_9a.jpg

Quy mô tổ chức Lễ Mạng Ma là những thành viên trong gia đình, tổ chức nghi lễ cho bố, mẹ (là những thầy mo), nhưng các thủ tục đều được làm đầy đủ. Thành phần tham gia chủ yếu là người thân trong gia đình nội, ngoại và bà con dân bản đến góp vui.

Thầy mo người Xinh Mun có cả đàn bà (Êm dua bi mạ) và đàn ông (Ải dua bi mạ). Thầy mo có 2 loại: một là: “tự biết nghề, được thần linh lựa chọn” do sau một thời gian ốm, mệt rồi bỗng nhiên biết các bài cúng, chữa bệnh (chiếm đa số và hành nghề cao tay); hai là: học để hành nghề (phải sau nhiều năm mới thành thạo nghề). Nhưng cả hai loại thầy mo, mới vào nghề hay hành nghề lâu năm, hàng năm đều phải tổ chức Nghi lễ cúng tổ nghề (Ksaisatip).

Nghi lễ Mạng Ma của người Xinh Mun Dạ (xã Chiềng On, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La) thường được tổ chức vào đầu năm, khi hoa ban, hoa mạ nở, măng đắng mọc lên, diễn ra trong 2 - 3 ngày, vào ngày lành tháng tốt. Thành phần tham gia nghi lễ gồm: 02 thầy mo (một thầy là người đỡ đầu, một thầy được đỡ đầu hoặc thầy mo bị ốm (có thể là đàn ông hoặc đàn bà); Họ bên ngoại; Con cháu trong gia đình, dòng họ; Người dân trong bản.

Khi hành lễ, thầy mo mặc trang phục truyền thống của người Xinh Mun, đầu đội khăn được tạo bằng cách ghép 2 mảnh vải thổ cẩm đỏ, đính các loại vải nhiều màu rực rỡ, khăn dài đến thắt lưng. Những người tham gia mặc trang phục truyền thống của người Xinh Mun (hiện nay, chỉ còn phụ nữ mặc trang phục truyền thống, đàn ông mặc âu phục)

Khi thầy mo thấy trong người không khỏe, hoặc thầy mo đỡ đầu mới chết, trong gia đình, bản có nhiều người ốm, gia súc, gia cầm bị dịch bệnh thì thầy mo phải đem áo của mình đi nhờ một thầy mo khác (cao tay hơn mình), xem có vấn đề gì? Nếu thầy mo đó nói thần linh yêu cầu phải cầu cúng, dâng lễ, hoặc giải hạn thì thầy mo này về phải chuẩn bị làm Lễ Mạng Ma. Đồng thời, cũng xem luôn thầy mo nào có thể hợp hồn, hợp tuổi để cúng cho mình, làm người thầy đỡ đầu cho mình.

Ngày thứ nhất: Chủ nhà nhờ họ hàng, dân bản đến để làm các đồ lễ và chuẩn bị mọi thứ phục vụ cho nghi lễ. Đồ lễ đều được làm 1 đôi trở lên (nếu thầy mo tổ chức lễ Mạng Ma lần đầu sẽ làm mỗi thứ 1 đôi, nhưng cứ thêm một lần thì làm thêm một đôi) gồm: Đồ lễ đặt vào mâm, gian thờ, đồng thời làm đạo cụ để múa trong nghi lễ, được làm bằng gỗ, tre, chỉ màu: dao nhọn, dao chặt, cuốc, xẻng, cào thóc, rìu, bừa, cày; ô, con ve sầu, gậy, ống tre; Đồ lễ được buộc vào một sợi dây, gắn vào một thanh tre dài 1,5m, treo từ nóc nhà thả xuống xung quanh cây nêu được làm bằng gỗ, tre, chỉ màu: Trống và dùi, thuyền và mái chèo, chùm hoa, con cá, con chim, tổ ong; 4 cái khăn vải thổ cẩm mầu đỏ để thầy mo làm lễ (nếu thầy mo là nữ thì khâu vải thổ cẩm làm thành mũ); 6 cái khăn bằng vải bông (ba cái màu đỏ, 3 cái màu trắng); 1 cái trống da; 2 cái chiêng; 2 cái chũm chọe; quả nhạc.

Ngày thứ 2: Lễ cúng chính do thầy mo chủ trì. Khi thầy mo đến, họ hàng và dân bản mới được giết mổ các con vật hiến linh như: lợn, gà, dựng cây nêu, bày biện các lễ vật. Họ hàng mang theo gạo nếp, rượu hay tiền để giúp gia chủ.

Chủ nhà tiến hành sửa soạn hai mâm cúng chính: Một mâm của thầy mo thực hiện nghi lễ, một mâm của chủ nhà (tức là thầy mo bị ốm). Hai bàn cúng được đặt tại gian đầu tiên của ngôi nhà (tính từ bên sàn phơi, gọi là gian xia). Hai mâm cúng này được bày giống nhau gồm: vải, khăn, gạo, trầu cau, trứng gà, tiền xu bạc, vòng bạc, nến, dây thắt lưng, áo của thầy mo bị ốm.

Lợn, gà được mổ, làm sạch đặt vào vách bên cạnh gian cúng, đậy lá chuối kín, bỏ gọn 4 con gà trong bụng con lợn (cho thần linh nhận lễ vật mang đi dễ dàng), nội tạng của lợn để lại mỗi thứ 1 ít trong bụng (coi như đầy đủ các bộ phận của một con lợn), còn lại đem chế biến để ăn trưa; để lên trên con lợn các loại đồ lễ: Cuốc, xẻng, ô, lọng, cây kết con ve sầu nhuộm xanh, đỏ, cày, bừa, cào, ống tre...

Cây nêu (cọc đắng) làm bằng tre dài khoảng 4m - 4,5m, từ mặt sàn đến nóc nhà, dựng trước gian thờ tổ nghề của thầy mo (xìa), trước cửa ra vào (bên sàn phơi). Dây rau bò khai (khả lín: vừa là một loại rau rừng, vừa là vị thuốc nam chữa bệnh) được buộc xung quanh cây nêu dâng lên thần linh; 4 tấm phên  bằng tre đan hình xương cá, dài từ sàn nhà đến đỉnh cây nêu, được ốp xung quanh cây nêu có ý nghĩa dâng những con cá lên thần linh; cài vào thân cây nêu các loại hoa ban, hoa mạ, bông lúa chẻ bằng lạt tre; treo 2 dây con chim én đan bằng tre dài từ trên đỉnh cây nêu xuống sàn nhà; từ gốc lên khoảng 50cm, chốt 1 thanh gỗ ngang, trên đó treo một đôi chũm chọe, 1 chiếc chiêng nhỏ không có núm (bàn sang), 1 chiếc sừng trâu để uống rượu cần; gốc cây nêu buộc 2 cái gậy bằng gỗ (lắc mắn), 2 củ măng đắng; đặt 2 chum rượu cần, đan 2 dây con chim én bằng tre thành vòng thắt quanh miệng chum.

Người nhà đan 2 phên tre (mùng mường) dài 1 sải tay, rộng 40cm gác lên sát mái nhà trên chỗ gian thờ của thầy mo, cứ để đó đến khi hỏng hoặc tổ chức lễ tiếp theo mới tháo xuống. Hai phên tre này ghép vào nhau, phía trong có 2 sải vải trắng tượng trưng cho trời, trên tấm vải trắng đặt những chiếc lá, cành tre tượng trưng cho sự sống, để cầu thần linh phù hộ cho dân bản có sức khỏe, làm ăn mưa thuận gió hòa.

Bên ngoại đặt một mâm lễ gồm 1 đống thóc, một đống gạo, đặt 2 chiếc cầu thang nhỏ bằng gỗ vào 2 bên mâm, đặt tiền vào 2 phần thóc, gạo. Mâm lễ này được gác lên gần nóc nhà ở góc thờ của thầy cúng, cầu mong cho con cháu bên ngoại được mùa, thóc lúa đầy bồ, đầy kho. Khi cúng xong, phần tiền được chia cho 2 thầy mo, phần thóc thì thầy mo chính gói về một ít làm hạt giống, cầu thang gỗ đặt lên bàn thờ.

Ở góc gian cúng đặt một mâm cúng gồm: vải thổ cẩm, kéo cắt vải, cây kết con ve sầu... Cạnh mâm cứng đặt hai mô hình ngôi nhà sàn được làm bằng gỗ, kích thước nhỏ gắn khau cút, xung quanh vẽ trang trí hình xương cá. Một ngôi nhà của bên nội tặng, một ngôi nhà của bên ngoại (của người được cúng) tặng, với mong muốn kêu mời thần linh xuống ngự trị ở hai ngôi nhà này, phù hộ cho gia đình, con cháu làm ăn phát đạt.

Hai thầy mo thực hiện các nghi lễ: cúng mời thần linh về dự lễ, cúng thần phù hộ chủ cúng, mời thần linh ăn trưa, cám ơn họ bên ngoại, lễ cúng thần linh phù hộ cho gia chủ (cầu xin sức khỏe, tuổi thọ, con cái, nhà cửa khang trang, ngô lúa nhiều, lợn, gà sinh sôi đầy đàn). Sau đó, thầy mo (người ốm) tự cúng cho mình mời thần linh, tổ tiên về kiểm tra và thụ hưởng lễ vật.

Cúng xong, hai thầy mo mời các thần linh múa xòe. Họ đội vòng hoa lên đầu, lấy khăn treo trên tường cùng dây thắt lưng (sài eng) buộc ngang eo, số khăn còn lại quàng qua cổ, một tay cầm quạt, 1 tay cầm bó dao, cây ve sầu, gậy tre, gỗ, ô chỉ. Trong khi các thầy chuẩn bị đạo cụ thì mọi người phân công nhau đánh trống, chiêng, chũm chọe, tăng bu, bàn sang (chiêng nhỏ được đặt trên một chiếc chum rỗng, một người ngồi gõ bằng que tre chẻ thành lạt). 2 thầy mo bắt đầu đi xung quanh cây nêu, mọi người chân bước theo nhịp xòe, ngược chiều kim đồng hồ, tay đưa ra trước bụng rồi vung ra sau. Đi được 2 vòng, các thầy đi xem chuồng lợn, chuồng gà, lúc này mỗi người ăn một miếng trầu và nhai trầu, đến chuồng lợn hay chuồng gà các thầy mo lại nhổ nước trầu vào mình lợn gà và cầu xin thần linh phù hộ cho lợn gà không bị dịch bệnh mau lớn, sinh sôi đầy đàn…, rồi lên nhà tiếp tục xòe. Mọi người lấy đạo cụ: phụ nữ thì cầm ô, lọng, hoa, ve sầu … xòe theo kiểu dâng hoa, che lọng; đàn ông thì cầm cày, bừa, dao, xẻng…làm các động tác cày, bừa, phát nương.... Vòng xòe đầu tiên thể hiện nhiều động tác rất sôi động, có tính chất làm cho thầy mo và các thần linh vui. Thầy mo cởi bỏ khăn, thắt lưng, đạo cụ tiếp tục cúng. Mọi người bỏ đạo cụ về chỗ cũ, người nhà mang lợn, gà cúng ra ngoài để chia cho nhà ngoại và chế biến đồ ăn tối.

Đồ ăn được chế biến và bày lên 2 mâm lễ để thầy cúng làm lễ mời các thần linh, tổ tiên về ăn tối; lễ cúng thần linh phù hộ người ốm, gọi hồn người ốm về. Sau đó, mọi người cùng múa xòe, ăn tối, tiếp tục múa đến nửa đêm.

Ngày thứ 3, nhà gia chủ mổ con lợn khoảng 20kg để biếu bên ngoại, dùng thịt lợn cúng hôm trước để chế biến đồ ăn trưa. Vào nghi lễ, 2 thầy mo hướng dẫn mọi người múa xòe và diễn trò, đạo cụ bổ sung thêm 1 quả hoa chuối, 1 cây chuối nhỏ, bỏ ngọn, gốc. Trước khi múa, người nhà đặt một mâm lễ ngoài sàn phơi (bên xia, lối đi lên của phụ nữ), trước cửa phía sau, để ngăn cản tà ma không cho vào nhà quấy phá buổi lễ, thắp nến xong thầy mo đóng cửa vào, mọi người trong nhà không ai được ra, bên ngoài không ai được vào. Ngoài vòng xòe, mọi người còn trình diễn các trò như: chèo thuyền, đấu võ, bắt tổ ong. Sau đó là lễ cúng mời tổ tiên về ngự tại nhà và lễ cúng tiễn thần linh, kết thúc lễ Mạng Ma.

Nghi lễ Mạng Ma là nghi lễ cầu sức khỏe, giải hạn, cầu bình an cho các thầy mo, cầu cho dân bản khỏe mạnh, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, gia súc sinh sôi, không có bệnh dịch, là một nghi lễ quan trọng trong đời sống tâm linh của người Xinh Mun dạ ở Chiềng On. Các điệu múa, trò diễn tái hiện lại cuộc sống, lao động sản xuất của người dân, thể hiện mong ước về cuộc sống no đủ, khỏe mạnh. Lễ Mạng Ma bảo lưu các giá trị văn hóa truyền thống cộng đồng: Ẩm thực, diễn xướng dân gian, nghệ thuật múa, nghệ thuật tạo hình... của người Xinh Mun. Nghi lễ còn phản ánh đời sống tín ngưỡng phong phú, quan niệm về nhân sinh quan, thế giới quan, nguồn gốc của tộc người Xinh Mun, góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa tộc người...

Với giá trị tiêu biểu, Nghi lễ Mạng Ma (Cầu sức khỏe) của người Xinh Mun Dạ được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 2727/QĐ-BVHTTDL ngày 30/9/2020./.

http://dsvh.gov.vn/nghi-le-mang-ma-3330






 

HÁT RU CỦA NGƯỜI VIỆT Ở CẦN THƠ

Hát ru ở Cần Thơ ra đời cùng với bối cảnh chung và là một phần di sản của hát ru Nam bộ. Theo dòng chảy lịch sử văn hóa, hát ru của người Việt ở Nam bộ dần khẳng định đây là một thể loại âm nhạc dân gian đặc trưng, với 3 thể loại hát ru chính của 3 miền: Bắc, Trung, Nam.

 

Kế thừa truyền thống hát ru từ miền ngoài, trong quá trình khẩn hoang mở đất phương Nam, những lưu dân biết khai thác từ công thức chung, rồi vận dụng vào hoàn cảnh, điều kiện sinh hoạt sở tại, để dần dần sáng tạo thành điệu hát ru mang tính chất, đặc trưng của vùng đất - con người nơi đây. Hát ru ở Cần Thơ cũng như nhiều địa phương khác thường sử dụng ca dao, thơ lục bát, vè, hò, nói thơ là chủ yếu, được lưu truyền trong dân gian, do vậy nội dung các câu hát ru xuất hiện ở nhiều tỉnh hay vùng Nam bộ. Ngoài ra còn có những câu hát ru được sáng tác, cải biên cho con người và vùng đất Cần Thơ. Tại vùng Thốt Nốt, nhiều người theo tôn giáo Hòa Hảo còn sử dụng thi văn giáo lý để ngâm hay hát ru cho con, cháu ngủ…

Mở đầu lời ru, thông thường người miền Bắc thường sử dụng câu đưa hơi là “À ơ”; người miền Trung sẽ nặng hơi với “Ạ ơ”; người miền Nam biến đổi nhẹ thành “Ầu ơ”, thỉnh thoảng gắn thêm câu “Ầu ơ…ví dầu…”. Nhìn chung, nội dung câu hát ru phản ánh nhiều mặt của đời sống xã hội: tình cảm gia đình với công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ; tình yêu đôi lứa; tâm tình, tự sự của người phụ nữ; chủ đề quê hương đất nước; phản ánh đời sống xã hội... 

Hát ru ở Cần Thơ thường diễn ra trong 3 giai đoạn: Dạo đầu, diễn biến nội dung và kết thúc.

Phần dạo đầu: Hát ru ở Cần Thơ sử dụng các từ như ầu ơ…; ơ…ầu…ơ; ầu ơ… ví dầu…; ơ…ớ…ơ; u...a...; ù…ơ (quơ)… để đưa hơi, một số người sử dụng câu hò để ru cho trẻ ngủ thì dùng từ đưa hơi là hò…ơ...; một số không dùng từ đưa hơi mà hát hoặc ngâm liên tục những câu ca dao, văn vần (vè, thơ lục bát,…). Tiếng đưa hơi được cất lên ở phần đầu, phần giữa và đoạn hát kết thúc, cũng là tiếng cất lên để đảm bảo tính liên tục trong khi chờ tìm lời ru khác.

Phần diễn biến nội dung: người hát chuyển từ đưa hơi sang những câu hát mà mình thuộc, vỗ về cho đến khi đứa trẻ ngủ.

Phần kết: Khi đứa trẻ ngủ say, người hát không còn chú tâm vào lời ru mà dùng tiếng đưa hơi, điệp khúc, điệp từ, lời ru nhỏ dần và lơi dần.

Giống như một bài hát thông thường, bài hát ru cũng có 2 phần: Giai điệu (nhạc) và ca từ (lời). Các nhà nghiên cứu đều thống nhất: Cấu trúc làn điệu của kiểu cách hát ru Nam bộ khá giản đơn, nhưng có sự khác biệt so với hát ru miền Trung, hát ru miền Bắc.

Về cấu trúc âm nhạc, nhạc sĩ Lư Nhất Vũ cho rằng cả 3 miền đều có 2 thể loại khác nhau. Đầu tiên ra đời loại hát ru mang phong cách “hát nói”, qua kiểu hát ngâm ngợi. Dần dần, nâng lên theo phong cách ca xướng, tức ca khúc dân gian, phổ biến rộng rãi đến ngày nay.

Từ cặp thơ lục bát (hoặc song thất lục bát; hoặc lục bát biến thể), người hát xướng lên một cách tự nhiên, tự do thể hiện thành giai điệu, nhịp điệu; thành một bài hát ngắn ; có thể là 2 câu, 6 câu, 8 câu hay không giới hạn, hát mãi cho đến khi trẻ ngủ.

Hát ru Nam bộ có âm vực khá hẹp, vừa đủ truyền tải lời thơ, có chỗ đưa hơi, ngâm nga; rất ít lên, xuống theo kiểu bổng trầm nên ai cũng có thể hát ru được.

Các nhà nghiên cứu ghi nhận, một bài hát ru thông thường, phổ biến hay dùng thang 4 âm, nghĩa là sử dụng 4 nốt nhạc, thể hiện tính chất giản đơn của hát ru. Khi đạt tới độ chín mùi thì chuyển sang 5 âm, nghĩa là sử dụng 5 nốt nhạc, với hơi oán trong âm nhạc truyền thống, một “đặc sản” âm nhạc dân gian Nam bộ, tương tự hơi oán trong nhạc tài tử, cải lương.

Về phần ca từ (lời ru), bên cạnh việc sử dụng chung lời ru Nam bộ, hát ru ở Cần Thơ còn sáng tạo lời ru cho phù hợp với bối cảnh quê hương, sông nước, ruộng, vườn bằng các địa danh cụ thể như: Cần Thơ, Cao Lãnh, Bình Thủy, Long Tuyền, Cồn Cát… Những câu hát ru mang nội dung vùng đất con người Cần Thơ, đôi khi còn là một minh chứng lịch sử cho buổi đầu lập nghiệp của cha ông; phản ánh đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội.

Hát ru ở Cần Thơ thể hiện sự thích nghi của con người với tự nhiên, môi trường, khí hậu trong quá trình khai hoang, lập ấp; là sự tiếp biến, giao lưu văn hóa qua sự thay đổi của lời hát ru để phù hợp với đời sống sinh hoạt, văn hóa, tín ngưỡng… trên vùng đất mới. Hát ru đóng góp quan trọng vào việc xây dựng nền tảng đạo đức gia đình, hình thành nhân cách con người từ tấm bé. Nội dung của các câu hát – lời ru còn phản ánh nét sinh hoạt văn hóa đặc trưng Nam bộ như: ca ngợi tình yêu quê hương, đất nước, tình yêu gia đình,… thông qua lời ru, đứa trẻ khi còn nhỏ dần tiếp xúc với lời ru ngọt ngào của những người thân yêu như một cách trau dồi, học tập về lẽ sống ở đời; người lớn học được những lời hay ý đẹp trong từng lời ru. Hát ru, giai điệu và lời hát có khả năng tác động mạnh mẽ vào tâm tư, tình cảm của người nghe, kích thích sự phát triển của ngôn ngữ, tư duy, trí tuệ, tình cảm đạo đức tốt đẹp và quan trọng hơn hết là hình thành ý thức truyền thống văn hóa dân tộc và tình yêu với nền âm nhạc truyền thống cho trẻ và cho mọi người.

Với giá trị tiêu biểu, Hát ru của người Việt ở Cần Thơ được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 2744/QĐ-BVHTTDL ngày 30/9/2020.

http://dsvh.gov.vn/hat-ru-cua-nguoi-viet-o-can-tho-3334



 

LỄ HỘI BƠI TRẢI ĐỀN, CHÙA NGỌ DƯƠNG

Lễ hội Bơi trải đền, chùa Ngọ Dương (xã An Hoà, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng), được tổ chức gắn liền với sự tích thờ vị Thành hoàng làng Ngọ Dương là Hoàng Độ cư sĩ (quê ở xã Nại Thượng, nay thuộc huyện Kim Thành, Hải Dương).

C:\Users\SPRING\Desktop\ảnh vhtt\878e604951faaea4f7eb-aee921d650534aa9bd2f98480ae809d4.jpg

Để tưởng nhớ ngày mất (25 tháng Chạp) của vị Hoàng Độ cư sĩ và báo đáp công ơn công lao to lớn của Ông với đất nước, nhân dân, nên người dân Ngọ Dương tổ chức, trình diễn lễ hội Bơi trải hàng năm để báo đáp công ơn to lớn của ngài. Theo các tư liệu lịch sử, hương ước, thần tích - thần sắc làng Ngọ Dương (năm 1934), cũng như truyền thuyết dân gian địa phương, lễ hội được cộng đồng địa phương tổ chức, thực hành từ lâu đời; đến thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVIII) đứng trước nguy cơ bị loại bỏ nhưng được cộng đồng gìn giữ và duy trì đến trước năm 1947. Năm 1954, lễ hội Bơi trải Ngọ Dương được tổ chức lại và duy trì đến nay tại đền, chùa Ngọ Dương và sông Cổ Bồng trước cửa đền.

Theo truyền thuyết dân gian tại địa phương, Thành hoàng Hoàng độ cư sĩ và 6 người anh em đang qua sông làng Ngọ Dương thì trời nổi trận phong ba, các ngài đều hóa tại đây và hiển linh báo mộng cho dân làng. Thi thể các ngài được dân làng an táng chu đáo và lập miếu thờ. Để giữ lễ phép, gia phong, làng Ngọ Dương đã cử 2 bô lão chỉnh tề nghi lễ, cờ lọng, lễ vật lên thuyền qua sông làm lễ bái yết trước lô hương, rước về miếu thờ an vị. Khi hai chiếc thuyền cùng đua bơi hành lễ thì bỗng dưng lô hương bốc cháy, báo hiệu Ngài đã linh ứng. Cũng từ đó, nghi lễ hàng năm, đều tổ chức thi bơi thuyền (đấu trạo) và hành lễ dâng hương duy nhất chỉ có trai nghi (đồ chay). Hương ước làng Ngọ Dương cũng nhấn mạnh về việc dùng lễ chay trong các sự lệ tế Thánh.

Lễ hội được cộng đồng tổ chức vào ngày 24, 25 tháng Chạp và các ngày 2, 3, 5 tháng Giêng, trong đó ngày 24 làm lễ tế cáo yết (nhập tịch); ngày 25 hạ thủy các trải, làm lễ rước nước; ngày 2, 3, 5 thi đấu tranh giải bơi trải và kết thúc lễ hội vào mùng 5 (tống tịch).

Sau khi làm lễ nhập tịch (ngày 25), các dòng họ, các đoàn rước lễ ra đền với các lễ vật do cộng đồng tự làm như: bánh dày, bánh đường, bánh xu xê, bánh khảo, bánh gai, bánh gấc, xôi trắng, trầu cau, các loại hoa quả và hương hoa. Mỗi thứ bánh dâng cúng Thành hoàng, phải làm đủ 1 vành (mâm vuông), cứ 2 cái (một cặp) xếp chạy vòng quanh mâm cho đến vành thứ 10, xen kẽ giữa các vành được lót tấm ván gỗ mỏng. Mỗi mâm bánh của một dòng họ khoảng 100 cái, mỗi suất đinh 1 cặp bánh. Bánh tròn đặt trên mâm vuông thể hiện triết lý âm dương của người Việt cổ - “âm dương tương hỗ, vạn vật sinh sôi”, qua đó gửi gắm mong ước, khát vọng cầu sinh sôi và phát triển của người dân địa phương.

Sau đó, cộng đồng thực hành nghi lễ, nghi thức rước nước tế Thần. Đội tế nam quan cùng thủy thủ các đội trải là các nam giới tuổi dưới 18. Trước đây, khi làng Ngọ Dương còn phân chia theo 7 giáp thì thực hiện diễn trình rước nước do 7 giáp tiến hành. Nhưng hiện nay, chỉ còn 5 thôn (đại diện cho 5 đội bơi trải) cùng đội tế nam quan tiến hành. Tham gia đội rước nước, các thành viên trên trải đều phải ăn mặc chỉnh tề, trang phục theo lối cổ truyền, màu sắc theo ngũ hành. Trên mỗi thuyền đều có lọng che màu vàng. Lễ vật rước nước gồm có lá trầu, quả cau, đinh tiền, giấy vàng và hương.

Nghi thức rước nước được tiến hành từ đền Ngọ Dương qua nghi môn, ra bến sông Cổ Bồng trước cửa đền, rồi xuống trải, bơi trải ra chỗ nước trong giữa sông lấy nước vào bát được đặt trên mâm bồng phủ tấm vải vuông màu đỏ. Khi ra đến đoạn giữa sông, chủ tế cùng tế đám của 5 trải làm lễ thỉnh cầu thần linh, đồng thời tiến hành lấy nước. Sau đó, rước nước về đền làm lễ tế ngoại tán trước cửa đền Ngọ Dương và thờ trong đền suốt dịp lễ hội. Sau lễ hội, nước được ban lộc cho dân làng và khách thập phương để cầu may mắn, xua tan bệnh tật, cuộc sống no đủ. Khác với rước nước trong lễ hội truyền thống ở các địa phương trong vùng và cả nước, rước nước ở Ngọ Dương không mang ý nghĩa cầu nước, chỉ để tưởng nhớ ngày mất/hoá của vị Thành hoàng làng Hoàng Độ cư sỹ đại vương cùng 6 người anh em của ngài.

Sau lễ rước nước, đại diện của 5 đội trải bắt thăm chọn vị trí đường đua. Trên từng lá thăm có ghi sẵn vị trí xuất phát. Theo quy định của làng, người tham gia bơi trải phải trong sạch, trong năm đó không có tang trở, trong những ngày thi đấu phải ở tập trung, tuyệt đối không được dùng rượu và đồ mặn (chỉ được ăn đồ chay). Tiếp theo đó là nghi thức khai hội và dâng hương, tế thần của đội tế nam quan và đội tế nữ quan.

Ngày mùng 2 tháng Giêng (theo lệ cổ là ngày mùng 1 nhưng sau này cộng đồng đã xin phép Thành hoàng chuyển cuộc thi bơi trải sang ngày mồng 2 Tết). Buổi sáng, dân làng và khách thập phương ra đền lễ Thánh. Buổi chiều, từ 13 giờ 30 phút đến 15 giờ, 5 đội bơi trải (tương ứng với 5 thôn của làng, gồm thôn 1, 2, 3, 4 và thôn 5) tham gia thi đấu tranh giải trên sông.

Tham gia bơi trải là những nam giới từ 18 đến 45 tuổi, có sức khỏe, hiểu biết về bơi trải. Trang phục của các thành viên mỗi trải theo 5 màu ngũ hành: đỏ, vàng, xanh nõn chuối, xanh lam và màu hồng; lưng và đầu thắt dải lụa đỏ. Mỗi trải có 16 người, gồm: 1 lái, 1 dậm cốc và 14 tuyển thủ (trước đây, có những năm mỗi trải có thể lên đến 17 người gồm: 1 lái, 1 dậm cốc, 1 tát nước và 14 tuyển thủ). Xưa, các trải tham gia thi đấu, tranh giải được đóng bằng gỗ dẻ (nhẹ, không thấm nước). Nay, các trải được làm bằng chất liệu composite (nhẹ và bền). Trải có đầu và đuôi hình rồng, thân vẽ vẩy. Các trải đều được sơn vẽ mầu vàng. Trước khi các đội tham gia bơi trải đều phải vào đền lễ Thành hoàng làng. Sau đó ra bến tập kết các trải, mỗi đội lên trải của đội mình. Khi có hiệu lệnh 3 hồi trống, phất cờ, các trải dàn hàng ngang và bắt đầu cuộc bơi trải.

Bơi trải Ngọ Dương được trình diễn trên sông Cổ Bồng trước cửa đền Ngọ Dương, đoạn sông dài 1000m, chia làm 3 vòng (2 vòng đơn và 1 vòng kép). Con sông bắt nguồn từ sông Lạch Tray chảy qua cửa đền, chùa Ngọ Dương và tiếp tục chảy qua địa phận huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương. Trên đoạn sông Cổ Bổng được cắm các cột mốc, bao gồm: 1 cột mốc cắm giữa sông và ở giữa quãng đường bơi, vị trí nhìn về trước cửa đền, trên cột có buộc cờ thần, tại cột mốc này, các trải về đích phải bơi 1 vòng kép (bơi trải quanh cột 2 vòng); 12 cột mốc khác được cắm ở hai điểm đầu đường bơi và cọc được buộc cờ chuối ngũ sắc, tạo thành các đường đua của 5 trải theo màu sắc quần áo thuỷ thủ các trải và theo thứ tự đã bắt thăm. Bên cạnh đó còn có hai cọc nhỏ buộc cờ chuối màu đỏ, ở vị trí phía ngoài các cờ chuối làm mốc quay đầu đánh lái cho các trải tham gia thi đấu. Tại vị trí các cột mốc này, khi bơi hết một lượt, các trải phải bơi quanh cột 1 vòng. Các đội trải thi đấu trong khoảng 1 tiếng rưỡi, đội thắng cuộc là đội về đích sớm nhất và không vi phạm các quy định đã nêu ra trong suốt quá trình diễn ra lễ hội.

Lễ hội Bơi trải Ngọ Dương khác với các lễ hội bơi trải trong vùng và địa phương khác ở quá trình thực hành bơi ở hình thức và kỹ thuật chơi. Lễ hội Bơi trải Ngọ Dương kết hợp cả về tốc độ và kỹ thuật bơi cao bởi nó đòi hỏi phải bơi các “vòng đơn và vòng kép”. Nếu không có kỹ thuật bơi tốt, các trải rất dễ bị lật thuyền và bơi vòng rộng hoặc các trải có thể va chạm nhau trong quá trình bơi.

Chiều mùng 3 và mùng 5, 5 đội trải lại tiếp tục đua tranh giải với thể lệ và cách thức bơi như ngày mùng 2, trong đó mùng 5 các đội trải thi chung kết. Điểm thi đấu sẽ được cộng tổng điểm (trung bình cộng) của các ngày thi đấu lại với nhau. Trải đoạt giải Nhất phải được 100 điểm, giải Nhì 80 điểm, giải Ba 60 điểm, giải Tư 40 điểm. Các trải thi đấu không đúng quy chế sẽ không có điểm. Trước năm 1945, làng tổ chức trao giải thưởng cho trải chiến thắng bằng các giải lụa đã thờ thần để được lấy may, phát tài, phát lộc. Hiện nay, trao thưởng có sự thay đổi, Ban tổ chức cộng điểm của các ngày thi và trao các giải từ Nhất đến giải Tư, phần thưởng là các vật phẩm bánh chay từ chính cộng đồng làm ra để kính dâng đức thánh như bánh dày, bánh khảo, bánh đường… và cũng có năm dùng tiền mặt để trao thưởng, khuyến khích các đội tham gia bơi trải.

Chiểu tối mùng 5, đoàn tế nữ quan tế tạ, kết thúc lễ hội.

Bên cạnh các nghi lễ cúng Thánh, giải đua trải, cộng đồng còn tổ chức các hoạt động văn nghệ, các trò chơi như: cầu thùm, đập niêu... trong không gian đền Ngọ Dương và trên sông Cổ Bồng.

Lễ hội Bơi trải đền, chùa Ngọ Dương được tổ chức nhằm tưởng nhớ ngày hoá của vị thành hoàng làng, tưởng nhớ vị tướng thời Hai Bà Trưng có công đánh giặc bảo vệ đất nước, thể hiện ý thức “uống nước nhớ nguồn” của cộng đồng đối với các bậc tiền nhân có công với dân với nước. Lễ hội Bơi trải đền, chùa Ngọ Dương thể hiện bản sắc văn truyền thống riêng của làng Ngọ Dương với hình thức bơi trải đòi hỏi kĩ thuật bơi cao, điêu luyện khác với các hình thức bơi trải khác trong vùng và cả nước; tự làm cỗ chay để tế lễ... Bơi trải, ngoài ý nghĩa gắn với ngày hoá của vị thần còn thể hiện tinh thần thượng võ của dân tộc, sự gắn kết cộng đồng hết sức rõ nét. Lễ hội bơi trải đền, chùa Ngọ Dương là dịp biểu dương sức mạnh của cộng đồng và là chất kết dính tạo nên sự cố kết cộng đồng. Lễ hội nhằm giáo dục truyền thống, đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, truyền thống “ăn quả nhớ người trồng cây” của dân tộc đến các thế hế hậu sinh.

Với giá trị tiêu biểu, Lễ hội nơi trải Đền, Chùa Ngọ Dương được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 2740/QĐ-BVHTTDL ngày 30/9/2020.

 

http://dsvh.gov.vn/le-hoi-boi-trai-den-chua-ngo-duong-3328








 

Lễ Pang Phóong (Tạ ơn) của người Kháng

Lễ Pang Phoón của người Kháng (xã Rạng Đông, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên) là lễ tạ ơn tổ tiên, thần linh đã phù hộ cho mọi người trong gia đình, dòng họ luôn được mạnh khỏe, làm được nhiều ruộng nương, lúa gạo, nuôi trâu bò nhanh lớn, công việc làm ăn thuận lợi, phát triển; anh em con cháu trong dòng họ gần gũi nhau, chia sẻ những khó khăn vui buồn, thắt chặt hơn nữa tình đoàn kết gắn bó; đồng thời nhắc nhở, răn dạy con cháu luôn nhớ về tổ tiên, cội nguồn của dân tộc mình. C:\Users\SPRING\Desktop\ảnh vhtt\dsc00087.jpg

Theo truyền thuyết, lễ Pang Phoóng bắt nguồn từ một sự tích về câu chuyện tình dang dở giữa chàng trai con Tạo bản và nàng vượn hóa thân thành thiếu phụ. Để tránh sự dò xét của dân làng, nàng vượn ra đi và dặn chồng sau mùa gặt làm cỗ tưởng nhớ nàng. Từ đó, lễ Pang Phoóng ra đời để tỏ lòng nhớ thương, biết ơn mẹ vượn.

Hàng năm, cứ đến mùa hoa mào gà nở đỏ trên nương cũng là mùa lúa chín, người Kháng dòng họ Lò Khul lại tổ chức lễ Pang Phoóng tại nhà trưởng họ. Theo phong tục truyền thống, lễ Pang Phoóng của dòng họ Lò, ngành Lò Khul, người Kháng tỉnh Điện Biên được tổ chức hàng năm, gần đây chỉ tổ chức 2 hoặc 3 năm một lần vào khoảng tháng 11 - 12, khi mùa vụ đã thu hoạch xong bà con có nhiều thời gian rảnh rỗi tham gia các nghi lễ trong gia đình, dòng họ và cộng đồng, làng bản.

Ngày làm lễ Pang Phoóng thường được chọn vào ngày rằm (vào ngày rằm có trăng sáng, nhân dân sẽ vui chơi được lâu hơn). Thầy cúng (Pắp lể) - người chủ trì hành lễ phải là người trong dòng họ Lò, ngành Lò Khul và là người am hiểu về nguồn gốc, lịch sử dòng họ mình (thường là trưởng họ). Nghi lễ được tổ chức trong 02 ngày tại nhà trưởng họ hoặc một gia đình nào đó trong dòng họ Lò, ngành Lò Khul được các thành viên trong họ thống nhất lựa chọn để làm lễ.

Để tổ chức lễ Pang Phoóng, trưởng họ sắm lễ vật, nhờ thầy chọn ngày tốt để làm lễ và họp anh em họ hàng để thông báo ngày giờ làm lễ; phân công công việc cho mọi người. Trước ngày lễ, trưởng họ cùng anh em lên rừng lấy cây sung rừng (mắc chắc, với mong muốn tổ tiên phù hộ cho lúa ngô luôn xanh tốt giống như cây này), hoa mào gà (bảnh cảng hoong só, loài cây gắn bó với lúa nương, cây bảo vệ lúa nương), cây mía rừng (làm mía, mía phan), ống nứa (bẳng om)… để trang trí gian thờ tổ tiên, nơi thờ cúng trong lễ Pang Phoóng. Lễ vật là các nông sản của địa phương để dâng lên tổ tiên, thần linh, đặc biệt phải có rượu cần (hay kha xả) - một trong những lễ vật không thể thiếu trong lễ cúng Pang Phoóng do vợ của trưởng họ làm. Theo lý của người Kháng, trưởng họ phải chuẩn bị được ít nhất ba bình rượu cần: dành cho tổ tiên nhà nội, tổ tiên nhà ngoại và anh em trong họ; hai ống hút rượu cần làm bằng ống tre; các bẻng chẹp kha - được tạo ra từ một sợi dây lạt đan thành phên như hình chữ A - cho từng người trong họ đến dự làm lý với tổ tiên, đồng thời là vật dụng dùng để gạt, vẩy rượu trong lễ mời rượu tổ tiên.

Lễ cúng chính bao gồm hai nghi thức: cúng lễ vật sống và cúng lễ vật chín. Lễ cúng vật sống bắt đầu với nghi thức gõ 3 hồi chiêng của thầy cúng, sau đó anh em trong dòng họ lần lượt vào gian thờ lấy bẻng chẹp kha thực hiện nghi thức vẩy rượu mời tổ tiên. Tiếp theo, các con vật hiến tế (1 con lợn và 1 con gà) được đặt vào mâm cúng (khọ lọ hoỏng) để thầy cúng làm lễ xin phép tổ tiên cho con cháu được dâng các con vật hiến tế và giết mổ trước sự chứng kiến của tổ tiên. Khấn xong, trưởng họ giao gà, lợn cho những người giúp việc đem đi chế biến và chuẩn bị mâm cúng, khi lễ vật đã được nấu chín, ông cùng thầy cúng đi chặt thêm một cành mắc chắc và lấy những gốc rạ để làm đũa cúng tổ tiên. Dòng họ thờ bao nhiêu người phải làm bấy nhiêu đôi đũa.

Lễ cúng chín: lễ vật cúng sống được chế biến thành chín cùng các lễ vật khác như: xôi, các loại rau củ được đồ lên, cá nướng… làm thành 2 mâm cúng. Thầy cúng và vợ cùng chủ nhà ngồi ở gian thờ làm lễ. Mâm thứ nhất có thịt lợn, tiết canh dâng lên trước ban thờ tổ tiên để khấn mời tổ tiên về dự lễ, hưởng các lễ vật và phù hộ cho mọi người trong dòng họ được khỏe mạnh, làm ăn phát đạt. Sau đó, dâng mâm thứ 2 có thịt gà luộc để nguyên con, gói xôi, cá nướng, bánh chưng, khoai, bí…

Thầy cúng bày lá mắc chắc trên một tấm phên nhỏ, lần lượt chia đều mỗi thứ đồ cúng một ít vào trong lá mắc chắc (gia đình thờ bao nhiêu người thì chia thành bấy nhiêu phần), đặt lên mỗi phần một đôi đũa rồi khấn mời tổ tiên nhận lễ, kể tên các lễ vật và cầu xin tổ tiên phù hộ con cháu khỏe mạnh, vụ sau trồng được nhiều thóc ngô, nuôi được nhiều lợn gà để dòng họ lại làm lễ Pang Phoóng tạ ơn tổ tiên. Vợ thầy cúng phụ giúp việc cúng lễ: gõ chũm chọe và nhảy múa trước bàn thờ. Tiếp đó thầy cúng lấy bẻng chẹp kha nhúng vào từng chum rượu trong gian thờ rồi vẩy ra ngoài sân với ý niệm mời ma nhà uống rượu, xong xuôi ông ghé miệng, vít cần rượu xuống uống một ngụm rượu nhỏ. Sau đó lần lượt chủ nhà, vợ chủ nhà, những người trong dòng họ cũng thực hiện như vậy để mời tổ tiên uống rượu.

Khi nghi thức cúng tổ tiên ở gian thờ đã xong, thầy cúng và trưởng họ chuẩn bị làm lễ cúng thần đất. Trong ngày làm lễ Pang Phoóng, người Kháng thường múa điệu “xék pang”. Điệu múa này thường tạo nên những âm thanh lớn, có thể ảnh hưởng đến thần đất. Vì vậy phải dâng mâm lễ cúng cái áo của chủ lễ (chủ dòng họ hoặc chủ gia đình) cho thần đất nhận biết để trình báo và xin phép thần đất cho phép dòng họ và dân bản được múa điệu “xék pang”. Để tham gia điệu xék pang, mọi người xếp thành hàng đứng sát bên nhau, một tay bám lên vai người đi trước, một tay cầm cây tăng bu (ống nưa). Mọi người cầm ống nứa vỗ đều xuống nền nhà cùng một nhịp theo tiếng trống, chiêng, chũm chọe. Tay họ bám vào vai nhau, chân nhún nhảy ra vào theo nhịp gõ. Hàng người di chuyển trước sau, trong ngoài, tiến lùi theo quy luật nhất định và theo người đứng đầu hàng, cuộc vui kéo dài sang tới tận ngày hôm sau.

Cùng với điệu xék pang, bà con còn tổ chức thêm một số trò chơi như ném còn, đẩy gậy, kéo co, hát dân ca, múa tầm đao, nhảy sạp, múa vòng tròn khiến cho lễ Pang Phoóng càng thêm phần náo nhiệt, thu hút nhiều người đến xem và tham gia. Tiếng gõ ống nứa trong điệu xék pang hòa nhịp với tiếng hát, tiếng hò reo cổ vũ của người xem, người chơi, người múa tưng bừng, rộn ràng vang động khắp một vùng.

Lễ Pang Phoóng kết thúc, bà con tin tưởng tổ tiên đã nhận được lễ vật của con cháu dâng cúng, phù hộ cho con cháu quanh năm được mạnh khỏe, công việc làm ăn thuận lợi, mùa màng tốt tươi, chăn nuôi phát triển.

Lễ Pang Phoóng của người Kháng góp phần thỏa mãn nhu cầu tâm linh của cộng đồng, là chỗ dựa tinh thần để mỗi người hướng về tổ tông, dòng tộc, các vị thần để gửi gắm niềm tin, cầu mong một cuộc sống bình an, khỏe mạnh, sung túc và củng cố sức mạnh cộng đồng; cũng là dịp để gặp gỡ, trao đổi, thắt chặt mối quan hệ cộng đồng, dòng họ; thể hiện tinh thần đoàn kết, tương trợ, bảo vệ và giúp đỡ nhau là truyền thống tốt đẹp của các dòng họ người Kháng. Lễ Pang Phoóng là nơi bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống, khuyến khích sự phát triển những giá trị văn hóa cộng đồng: các nghi thức, nghi lễ, diễn xướng dân gian, sinh hoạt của người Kháng. Lễ Pang Phoóng đã đem lại giá trị tinh thần, niềm lạc quan, niềm tin vào những điều tốt đẹp, cao cả, thiêng liêng, mang nhiều ý nghĩa nhân văn cao đẹp, đáp ứng đời sống văn hóa tâm linh của phần lớn bộ phận cư dân trong cộng đồng người Kháng. Lễ Pang Phoóng góp phần tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, khẳng định sức mạnh cộng đồng và là chất kết dính tạo nên sự cố kết cộng đồng.

Với giá trị tiêu biểu, Lễ Pang Phoóng (Tạ ơn) của người Kháng được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 2742/QĐ-BVHTTDL ngày 30/9/2020../

http://dsvh.gov.vn/le-pang-phoong-ta-on-cua-nguoi-khang-3327

Lễ hội Kỳ Yên đình Thần Thoại Ngọc Hầu

Lễ Kỳ yên tưởng nhớ Tôn thần Thoại Ngọc Hầu (1761 - 1829) của người dân Thoại Sơn nói riêng và vùng Tây Nam Bộ nói chung, cầu mong thần phù hộ quốc thái dân an, nhân khang vật thịnh, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt,… Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại là một vị tướng đã cống hiến suốt đời mình trong công cuộc khai hoang, lập ấp, đắp đê, làm đường, mở mang vùng Hậu Giang xưa, giữ yên bờ cõi phía Tây Nam, người có công truyền bá nghệ thuật dân tộc đặc sắc (hát tuồng) đến mọi vùng miền của Tổ quốc.

C:\Users\SPRING\Desktop\ảnh vhtt\le-hoi-dinh-than-thoai-ngoc-hau-5.jpg

Tưởng nhớ đến công lao to lớn của Ông Thoại, nhân dân Thoại Sơn lập đình thờ Ông là thần Thành hoàng bổn cảnh, tại thị trấn Núi Sập, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Không như các đình khác ở Nam Bộ, theo lệ ba năm tổ chức đại lễ Kỳ Yên, ở đình thần Thoại Ngọc Hầu thì việc tế lễ và mời gánh hát bội về Xây chầu cúng Thần hàng năm. Lễ hội Kỳ yên gồm các nghi lễ: Nghinh thần, Túc yết, Xây chầu, Đại bội và Lễ Chánh tế.

Ngày 10 là lễ Nghinh thần, Thần chủ của đình mời các vị thần nơi khác về tham dự lễ hội, đồng thời cùng phù hộ cho bá tánh của làng được phúc khang ninh, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu… Theo truyền thống, 8 giờ sáng, Ban Quý tế thực hiện nghi thức thỉnh Tổ Nhạc, Tổ Lễ, Tổ Hát bội, Quan Thánh Đế Quân từ Thoại Sơn Cổ Tự về đình an vị tại bàn Hội đồng ngoại. Tiếp đến là lễ tuần sắc (không có lễ thỉnh sắc) vì sắc phong được thờ tự ngay tại bàn thờ Thần và thỉnh sắc ra long đình, rước long đình ra dâng hương ở Tượng đài ở lòng hồ Ông Thoại rồi rước trở về đình. 10 giờ 30 là lễ Thỉnh sanh, làm heo tế Thần Nông. Heo được làm sạch, phần đầu, nọng, nuộc, niệt, lòng, huyết đem luộc chín. Thịt phần bụng lấy mỗi bên 03 phân chia thành 12 phần gọi là thịt tợ, phần thân heo chia thành bốn chỉ lấy xương sống và ba sườn gọi là bộng, phần thịt được lấy từ thân heo và bốn giò nấu canh, kho, xào, cơm thành 28 mâm dâng cúng đều các bàn thờ trong đình ngoài miếu và Tổ nhạc, Tổ lễ, Tổ hát bội, Chiến sĩ. Lễ cúng Thần Nông được tiến hành trước Đàn Xã Tắc theo cổ lệ, lễ vật, nghi thức đầy đủ của một nghi lễ nông nghiệp cổ để cầu phong điều vũ thuận, phong đăng hòa cốc.

Lễ Túc yết diễn ra vào lúc 24 giờ đêm mùng 10 rạng sáng 11 để trình báo với Thần công việc chuẩn bị kỳ tế lễ đã đầy đủ. Trước đó, lễ vật đã được chuẩn bị đầy đủ, bày trí ngay ngắn gồm hoa quả, xôi, nhang đèn… và không thể thiếu một con heo sống đã được làm sạch sẽ, đặt sấp trên giá gỗ, bên cạnh đặt hai thau đựng đầy đủ lòng (luộc chín), huyết heo. Đến giờ hành lễ, các thành viên Ban quý tế, nhạc lễ, đào thài thực hiện nghi thức theo cổ truyền.

Tiếp đến ngày 11 là lễ Xây chầu (còn gọi là lễ Khai tràng, khai thiên lập địa, khai thông thái cực), với mục đích cầu quốc thái dân an, mong sự hài hòa giữa con người với trời, đất. Xây chầu là một nghi thức điểm cổ (đánh trống) chầu, đánh rõ từng tiếng để khai mở vạn vật, kết nối con người với trời đất. Người được chọn cầm chầu phải là người đức cao vọng trọng, có uy tín trong làng, cộng đồng, gia đình đầy đủ vợ chồng, con cháu, không trong thời kỳ tang chế và phải biết rõ về nghi thức hành lễ. Mặt khác, còn phải là người cao niên (trên 50 tuổi) do quan niệm người tuổi càng cao là biểu hiện của sự trường thọ, trường tồn của làng xã, nên thường là Chánh Bái hoặc Hương Cả. Việc chuẩn bị trống chầu được đặc biệt xem trọng, phải đặt trống theo hướng đại lợi (hướng tốt). Tâm mặt trống phải vẽ đồ hình Thái cực biểu thị khai thông thái cực. Bởi theo quan niệm xưa, tiếng trống giữa đêm khuya sẽ làm thông thiên trời đất, khiến cho hoàng thiên hậu thổ thánh thần cảm ứng, có huyền lực làm cho tà ma yêu quái tránh xa, không dám lại gần đình miễu, làng xóm quấy nhiễu. Lễ Xây chầu được cử hành lúc nửa đêm nên âm lực của trống vang xa dễ làm thức tỉnh lòng người, xua đuổi tà ma. Chánh bái hay Hương cả thực hành nghi lễ, dâng trầu cau, rượu và cây dùi trống (hai đầu bịt vải tây đỏ) ra Miếu Ngũ Hành rót rượu trình khấn nguyện, thực hiện các thủ tục để bắt đầu lễ Đại bội.

Lễ Đại bội là trình thức hóa quá trình từ thái cực, lưỡng nghi, tam tài, tứ tượng, bát quái qua các số lượng diễn viên 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8 ở mỗi tiết mục của lễ này. Tuy biểu tượng cho thái cực, lưỡng nghi, bát quái, nhưng những lời lẽ trong nghi lễ nói lên những lời cầu chúc trường thọ, phát đạt, mưa thuận gió hòa. Lễ này do đoàn hát bội thực hiện, thể hiện qua 07 lễ phụ:

+ Lễ Khai thiên tịch địa: tượng trưng cho ngôi thái cực, một kép hát trong vai ông Bàn Cổ cầm bó nhang chỉ múa không hát, sau khi múa xong nhang được cắm trên bàn thờ Thần gọi là Điềm hương.

+ Lễ Xang Nhật Nguyệt: tượng trưng cho âm dương giao hòa, sinh ra vạn vật.

+ Lễ Tam tài: dân gian hay còn gọi là “Tam Đa, Tam Tinh và Tam Hiền” tượng trưng cho 3 vì sao do Thiên Đình sai xuống ban phước, lộc, thọ cho nhân dân.

+ Lễ Tứ Thiên vương dâng liễn: bốn võ tướng trấn 04 cửa trời (Đông, Tây, Nam, Bắc) múa tượng trưng cho chuyển động biến dịch để sinh ra bát quái, cuối cùng bốn vị chụm lại và quay mặt về bốn phía dâng liễn chúc tụng Dân giàu, Nước mạnh, Thịnh vượng, Thọ trường.

+ Lễ Đứng cái (còn gọi là trò Đại Bội): tượng trưng cho ngôi ngũ hành: Kim -Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ, Thổ là trung tâm là cái, điều hòa Kim, Mộc, Thủy, Hỏa và điều hòa bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông là con. Chúc cầu mưa thuận gió hòa mùa màng tốt tươi, cây cối đâm chồi nảy lộc.

+ Lễ Bát tiên hiến thọ tượng trưng cho bát quái: Tám vị tiên múa các vũ khúc chúc thọ cho dân làng.

+ Lễ Gia quan tấn tước: múa, diễn hài, cuối cùng vị Linh Quan dâng câu liễn chúc cho “Gia quan phổ tước”, nghĩa là cầu cho việc thăng quan tiến chức, phát triển sự nghiệp.

Kết thúc những tiết mục mang tính nghi lễ của Xây chầu Đại bội, đoàn hát sẽ tiếp tục hát những vở tuồng khác mang ý nghĩa, giá trị đạo đức về nhân - lễ - nghĩa - trí - tín để phục vụ bà con.

Lễ Chánh tế diễn ra vào lúc 24 giờ đêm 11 rạng ngày 12 với ý nghĩa tạ ơn Thần, tri ân các bậc Tiền hiền, Hậu hiền. Sau lễ Chánh tế, các đoàn hát bội trình diễn phục vụ lễ hội. Buổi chiều, Ban Quý tế cùng đoàn hát bội thực hiện lễ Tôn vương với ý nghĩa chánh luôn thắng tà, minh chúa lên ngôi đem lại thái bình, an cư, lạc nghiệp cho dân chúng. Đây là cách trình diễn tuồng kết hợp với nghi lễ và phần này bắt buộc phải có của một Đại bội, có thể gọi là diễn lễ. Sau phần diễn lễ, vị Chánh tế bưng khay việc trình Thần, lạy 4 lạy, rồi bưng khay việc vào lễ Tổ Hát bội, rước Tân Vương dâng ấn kiếm lên Thần. Sau cùng là lễ tất (kết thúc lễ).

Đình thần Thoại Ngọc Hầu là một ngôi đình gắn với quá trình di dân, khai hoang lập ấp vùng đất Thoại Sơn xưa và nay, phần nghi lễ của vẫn luôn được đảm bảo theo lễ nghi truyền thống. Lễ hội Kỳ yên đình thần Thoại Ngọc Hầu gắn liền dấu ấn lịch sử thời kỳ người Việt mang gươm đi mở cõi đến vùng đất An Giang, không những minh chứng cho quá trình di cư, hình thành cộng đồng cư dân nơi đây, mà còn là những dấu tích của các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội... của khu vực. Quá trình cộng cư người Việt với người Hoa, Khmer và các cư dân bản địa khác đã dẫn đến sự giao lưu văn hóa tín ngưỡng, kinh tế, chính trị và quân sự, tạo ra sự đồng thuận trong quá trình dựng nước và giữ nước, sự hài hòa trong quan hệ cộng đồng. Lễ hội Kỳ yên đình thần Thoại Ngọc Hầu đã góp thêm các cứ liệu lịch sử - văn hóa để minh chứng cho vị thế lịch sử của vùng đất Thoại Sơn nói riêng và An Giang nói chung trong tiến trình mở mang bờ cõi và giao lưu văn hóa của người Việt với các cộng đồng khác cùng sinh sống trên địa bàn. Thực hành lễ hội thể hiện tính cố kết cộng đồng, giữ gìn và giao lưu văn hóa truyền thống giữa các cộng đồng dân tộc Kinh, Khmer, Hoa… và nhắc nhở con cháu về một thời kỳ khai mở đất, đặc biệt là vai trò trị thủy của Thoại Ngọc Hầu. Lễ hội mang đậm dấu ấn truyền thống của lễ hội đình làng Nam Bộ, là một trong số ít những ngôi đình ở An Giang thu hút đông đảo người dân trong và ngoài tỉnh đến chiêm bái. Lễ hội kỳ yên đình thần Thoại Ngọc Hầu là nơi lưu giữ nghệ thuật hát bội, đặc biệt có tiết mục hát bội, được Ông Thoại đem từ miền Trung vào. Lễ hội còn mang trong mình nhiều giá trị và tiềm năng phục vụ cho việc phát triển du lịch bền vững ở địa phương.

Với giá trị tiêu biểu, Lễ hội Kỳ yên đình thần Thoại Ngọc Hầu được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 2947/QĐ-BVHTTDL ngày 16/10/2020.

http://dsvh.gov.vn/le-hoi-ky-yen-dinh-than-thoai-ngoc-hau-3319



 

Tác giả: BAN BIÊN TẬP

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây